Bản án 30/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 31 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1995 tại Bình Dương; hộ khẩu thường trú: ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương; tạm trú: ấp L, xã L1, huyện B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính:

nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị U; có vợ là La Ngọc B và có 01 con; tiền án, tiền sự: không; ngày bị tạm giữ từ ngày 31 tháng 12 năm 2020 đến ngày 09 tháng 01 năm 2021, sau tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1969; nơi cư trú: ấp 2, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Nguyễn Ngọc L là người nghiện ma túy, L sử dụng ma túy từ năm 2018 cho đến tháng 12 năm 2020.

Khong 22 giờ 20 phút, ngày 30 tháng 12 năm 2020, L điều khiển xe mô tô không gắn biển số lưu thông trên đường Quốc lộ A thuộc ấp L, xã L1, huyện B, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra của Công an xã L1, huyện B kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra thu giữ 01 gói nilon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng trong túi áo khoác bên phải của L, L khai nhận là ma túy đá. Công an xã L1 tiến hành lập biên bản quả tang, tạm giữ tang vật, phương tiện.

L khai nhận: gói nilon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng trong túi áo khoác là ma túy, L mua vào chiều cùng ngày với giá 700.000 đồng của một người đàn ông tên N (không rõ họ tên, địa chỉ) tại khu vực ngã tư A, Thành phố Hồ Chí Minh, L mua về để sử dụng. Sau khi mua gói ma túy, L cất giấu trong túi áo khoác, đang trên đường về nhà thì bị lực lượng Công an phát hiện thu giữ.

Ngoài ra, L còn thừa nhận đã sử dụng ma túy nhiều lần, ma túy mà L sử dụng mua của nhiều người khác nhau (không rõ họ tên, địa chỉ) ở khu vực ngã tư A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Xe mô tô nhãn hiệu H, số máy KC26E1268637, số khung RLHKC2602KY205441 không gắn biển số bị cáo L sử dụng đi mua ma túy là của bà Nguyễn Thị U (mẹ ruột L). Bà U không biết L sử dụng xe mô tô của mình để đi mua ma túy.

Tại Kết luận giám định số 818/MT-PC09 ngày 07 tháng 01 năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: mẫu tinh thể màu trắng gửi đi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng/trọng lượng 1,1828 gam.

Đối tượng tên N không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ.

Về xử lý vật chứng: xe mô tô nhãn hiệu H, số máy KC26E1268637, số khung RLHKC2602KY205441 không gắn biển số là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị U, bà U không biết L sử dụng xe mô tô của mình để đi mua ma túy. Ngày 15 tháng 3 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe mô tô cho bà U.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về việc xử lý vật chứng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bản Cáo trạng số 26/CT–VKSBB ngày 21 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thống nhất với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng. Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo L mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

Về vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy 1.0172 gam ma túy loại Methamphetamine.

Bị cáo Nguyễn Ngọc L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị U đã nhận lại xe không có yêu cầu gì trong vụ án.

Bị cáo Nguyễn Ngọc L nói lời sau cùng: trong thời gian bị tạm giam, bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là sai trái, bị cáo cảm thấy rất ăn năn về việc làm của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về gia đình, làm người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bàu Bàng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bàu Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại ấp L, xã L1, huyện B, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Ngọc L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine khối lượng 1,1828 gam để sử dụng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định: hành vi của bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tại phiên tòa: bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

5 Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau:

[5.1] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách của Nhà nước đối với việc quản lý chất ma tuý, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự chung của xã hội.

[5.2] Về nhân thân: tại thời điểm phạm tội, bị cáo L không bị kết án, không bị xử lý hành chính, xét về nhân thân của bị cáo là tốt.

[5.3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5.4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[6] Xét, tình hình tội phạm về ma túy hiện nay diễn biến phức tạp. Các đối tượng phạm tội ngày càng manh động, liều lĩnh, sử dụng những thủ đoạn cất giấu, vận chuyển, mua bán ma túy hết sức tinh vi, xảo quyệt nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc mua bán trái phép chất ma túy dẫn đến việc người sử dụng ma túy bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, không làm chủ hành vi, không tái tạo được sức lao động, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, lây truyền căn bệnh HIV- AIDS, gây nguy hại lớn cho gia đình và xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét nên xử bị cáo một mức án thật nghiêm tương xứng với mức độ, tính chất của hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[7] Đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo là tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về vật chứng: 1,0172 gam ma túy loại Methamphetamine là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Về các vấn đề khác:

Xe mô tô nhãn hiệu H, số máy KC26E1268637, số khung RLHKC2602KY205441 không gắn biển số là của bà Nguyễn Thị U, bà U không biết L sử dụng xe mô tô của mình để đi mua ma túy. Ngày 15 tháng 3 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bàu Bàng ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe mô tô cho bà U là phù hợp quy định pháp luật.

Đối tượng tên N mà L liên hệ mua ma túy không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, có căn cứ xử lý sau.

[10] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào các Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Mục 1 Phần I Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo) của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31 tháng 12 năm 2020.

2. Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 1,0172 gam ma túy loại Methamphetamine được đựng trong 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 818/PC09 có hình dấu đỏ của Phòng KTHS - Công an tỉnh Bình Dương có chữ ký của Nguyễn Ngọc L (người chứng kiến), Nguyễn Hoàng A (cán bộ giám định), Trịnh Lê Duy Q (cán bộ giao mẫu).

Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: bị cáo Nguyễn Ngọc L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về