Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 06/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 540/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Minh C, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện B, tỉnh L.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1982; Địa chỉ: Số Y, Quốc lộ 1A, thị trấn B, huyện B, tỉnh L.

(Chị C xin vắng mặt; Anh H vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 29/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Phan Minh C trình bày tóm tắt như sau:

Chị và anh H tự chung sống với nhau từ năm 1999, đến năm 2002 mới đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/11/2002. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, do tính tình không hòa hợp, thường xuyên cãi vã nhau. Anh H có quan hệ với người phụ nữ khác làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, hai bên đã không còn sống chung từ năm 2006 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H.

Về con chung: Cả hai có 02 con chung tên là Nguyễn Lâm K, sinh ngày 03/8/2000 và Nguyễn Thoại Kh, sinh ngày 04/11/2006. Cháu K đã trưởng thành. Cháu Kh đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Khi ly hôn, chị yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Kh, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi cháu Kh.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị C xác định chị và anh H không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn Nguyễn Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng thể hiện việc chị C xin ly hôn, nhưng không có ý kiến trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục thông báo về phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Anh Hải đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt. Chị C có đơn đề nghị không hòa giải, vụ án được đưa ra xét xử là đúng quy định của pháp luật. Bị đơn Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Nguyên đơn Phan Minh C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị C, anh H.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân giữa chị C và anh H: Chị C và anh H tự chung sống với nhau từ năm 1999, đến năm 2002 mới đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh L cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 13/11/2002, nên quan hệ hôn nhân của chị C và anh H là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

[2.2] Xét yêu cầu ly hôn của chị C thấy rằng: Chị C xác định trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi vả, do bất đồng quan điểm và anh H còn có quan hệ với người phụ nữ khác. Hai bên không còn sống chung với nhau từ năm 2016 cho đến nay nên tình cảm vợ chồng đã không còn. Sau khi chị C nộp đơn khởi kiện, được Tòa án thụ lý giải quyết cho đến khi xét xử, mặc dù anh H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, thể hiện việc chị C xin ly hôn, nhưng anh H cũng không có ý kiến phản hồi cho Tòa án, không thể hiện ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó, chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C đối với anh H.

[2.3] Về quyền nuôi con chung: Xét thấy, cháu Nguyễn Thoại Kh, sinh ngày 04/11/2006, đã trên 07 tuổi và có bản khai thể hiện nguyện vọng muốn sống chung với chị C trong trường hợp cha mẹ ly hôn. Anh H không có ý kiến nào phản đối yêu cầu của chị C về quyền nuôi con chung. Căn cứ quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Kh cho chị C được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Đối với cháu Nguyễn Lâm K đã trưởng thành, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5] Về chia tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.6] Trường hợp sau này đương sự có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn Phan Minh C phải chịu 300.000đ án phí ly hôn. Bị đơn Nguyễn Văn H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 483 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85, Điều 86 và Điều 119 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Phan Minh C được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về quyền nuôi con chung: Chị Phan Minh C được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thoại Kh, sinh ngày 04/11/2006.

3. Anh H có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp anh H lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị C có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh H theo quy định của pháp luật. Chị C cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con của anh H.

4. Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì chị C, anh H, người thân thích của cháu Kh, Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định của pháp luật.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phan Minh C phải chịu 300.000đ án phí ly hôn. Chuyển 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị C đã nộp theo biên lai thu số 0002657 ngày 17/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Lức, tỉnh Long An sang thi hành án phí, nên chị C không phải nộp tiếp. Anh Nguyễn Văn H không phải chịu án phí.

7. Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 06/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về