Bản án 30/2020/HSST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 30/2020/HSST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 28/2020/HSST ngày 08/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2020/QĐXXST- HS ngày 20/4/2020 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Thiện T, sinh năm 1999.

HKTT: Thôn T, xã M, huyện P, thành phố H.

Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M và bà Nguyễn Thị D; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/01/2020 đến ngày 21/01/2020. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 50 phút ngày 18/01/2020 tại Khu đô thị K thuộc xã X, huyện T, tỉnh B. Công an xã X, huyện T bắt quả tang Nguyễn Thiện T và Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 2003 trú tại thôn Đ, xã X, huyện T, tỉnh B đang ngồi ở góc cầu thang, tầng một trong ngôi nhà bỏ hoang, phía trước có một chai nước nhãn hiệu ICE, bên trong có nước, trên nắp chai có hai ống hút bằng nhựa màu trắng, có quấn băng dính màu đen, một bật lửa nhựa màu đỏ và một mảnh giấy bạc. kiểm tra người Nguyễn Thiện T phát hiện tại túi quần phía trước bên trái mà T đang mặc trên người có 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng bạc, tại túi quần phía sau bên phải T đang mặc có một túi nilon màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (T khai là ma túy) và số tiền 180.000 đồng. tiến hành kiểm tra trên người Nguyễn Ngọc Th không phát hiện đồ vật, tài liệu gì. Công an xã X đã lập biên bản và niêm phong số vật chứng theo quy định đồng thời chuyển hồ sơ cho Cơ quan CSĐT Công an huyện T giải quyết theo thẩm quyền.

Ti bản Kết luận giám định số 10/KLGDMT-PC09 ngày 20/01/2020 của Phòng kỹ T hình sự Công an tỉnh B kết luận: “ Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon màu trắng có trọng lượng 0,1700gam; Là ma túy; Loại ma túy Methamphetamine.

Nguồn gốc số ma tuý bị thu giữ T khai nhận: T hiện đang là sinh viên năm thứ 4 Trường Đại học công nghiệp dệt may Hà Nội có địa chỉ tại xã L, huyện G, thành phố H. Ngày 17/01/2020 Nguyễn Ngọc Th, là bạn quen biết xã hội có hỏi T là có sử dụng ma túy đã không, do bản thân T đã sử dụng ma túy hơn 01 năm nay nên T đồng ý. Vì vậy khoảng 10 giờ ngày 18/01/2020 khu T đi làm ở H về đến khu đô thị B thì có gặp Th và hỏi Th: Nay có chơi không?.(có nghĩa là có sử dụng ma túy không?); Th đáp: có. Lúc này Th đưa cho T 200.000 đồng để đi mua ma túy đá về sử dụng, sau đó Th đi về, còn T đi bộ một mình ra khu đô thị K thì gặp một thanh niên không quen biết khoảng 27 tuổi, cao khoảng 1m60, mặc áo khoác màu đen, quần vải màu đen, đi dép màu đen có biểu hiện nghiện ma túy. T đi đến gần người thanh niên này thì người này hỏi T: “Mày có chơi đá không?”, T đáp: “Có, anh để cho em 200.000”. Sau đó người thanh niên này rút ở túi áo ra đưa cho T một túi nilon nhỏ màu trắng, bên trong có ma túy đá, T đưa cho người thanh niên này 200.000 đồng. T cất gói ma túy vào túi quần rồi đi vào một ngôi nhà hoang trong khu đô thị K với mục đích đợi Th đến để cùng sử dụng. Nhưng khi vào ngôi nhà hoang T đã thấy Th ở đó. T và Th cùng đi vào gầm cầu thang của ngôi nhà thì thấy có sẵn trên sàn nhà một chai nước nhãn hiệu ICE bên trong có nước, trên nắp chai có hai ống hút nhựa màu trắng có quấn băng dính màu đen, một bật lửa màu đỏ và một mảnh giấy bạc. Khi T đang bỏ ma túy ra để sử dụng thì thấy bên ngoài có tiếng động. T liền cất ma túy vào túi quần sau nhưng ngay lúc đó bị Công an xã X bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Vi nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 26/CT-VKS, ngày 06/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh B truy tố Nguyễn Thiện T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên toà hôm nay, Nguyễn Thiện T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh B duy trì công tố tại phiên toà hôm nay sau khi phân tích đánh giá tính chất của vụ án, các chứng cứ, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để đưa ra những chứng cứ, lý lẽ buộc tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên tội danh như Cáo trạng đã truy tố và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 14 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đi diện Viện kiểm sát cũng đề nghị: Tịch thu tiêu huỷ tang vật còn lại sau giám định; một chai nước nhãn hiệu ICE, một bật lửa màu đỏ và một mảnh giấy bạc. Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng bạc và số tiền 180.000 đồng nhưng tạm giữ 02 chiếc điện thoại để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện rõ: Hồi 10 giờ 50 phút ngày 18/01/2020, Nguyễn Thiện T đã có hành vi tàng trữ bất hợp pháp chất ma tuý có trọng lượng theo kết luận giám định là 0,1700gam, loại ma túy: chất Methamphetamin nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Chính vì vậy phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bản thân bị cáo là sinh viên, từ nhỏ đến nay được gia đình nuôi ăn học nhưng không chịu học hành tu dưỡng bản thân mà ham chơi đua đòi sử dụng ma túy dẫn đến phạm vào tội nghiêm trọng. Vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, sau khi phạm tội và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Ngoài hình phạt chính, lẽ ra cần áp dụng khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước. Nhưng xét mục đích bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không nhằm mục đích thu lợi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đi với Nguyễn Ngọc Th theo T khai là người đưa tiền cho T để T đi mua ma túy về cùng sử dụng. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã cho T và Th đối chất nhưng Th không thừa nhận. Ngoài lời khai của T thì không có chứng cứ nào khác vì vậy Cơ quan điều tra không xử lý đối với Th là phù hợp.

Đi với người thanh niên mà T khai là đã bán ma túy cho T ở khu đô thị X nhưng T không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người thanh niên này do vậy Cơ quan điều tra không xác định được người thanh niên này là ai nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự để xử lý số vật chứng của vụ án như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là có căn cứ.

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu trắng bạc và số tiền 180.000 đồng của Nguyễn Thiện T. Xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thiện T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Nguyn Thiện T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 18/01/2020 đến ngày 21/01/2020.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ: 01(một) phong bì thư có chữ ký của giám định viên và dấu đỏ niêm phong của Phòng kỹ T hình sự, bên ngoài có ghi chữ “Cơ quan CSĐT- CAH Thuận Thành Mẫu vật còn lại sau giám định,kèm theo kết luận giám định số 107/KLGĐ-PC09 ghi ngày 20/01/2020 của PC 09”; 01 chai nước nhãn hiệu ICE, bên trong có nước, trên nắp chai có hai ống hút nhựa màu trắng có quấn băng dính màu đen; 01 bật lửa nhạ màu đỏ và 01 tờ giấy bạc.

Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone 6 màu trắng bạc, số IMEI 35923506273822, cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong và số tiền 180.000 đồng bên trong 01 phong bì thư bưu điện được niêm phong có dấu đỏ của Công an xã X và có chữ ký của những người liên quan, mặt trước có ghi chữ M1 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản ngày 27/4/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuận Thành)

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HSST ngày 13/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về