Bản án 30/2019/HSST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 30/2019/HSST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2018/HSST-QĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn P (Tên gọi khác: Đ), sinh năm 1984, tại Tây Ninh; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: ấp BN1, xã GB, huyện TB, tỉnh Tây Ninh; Chỗ ở hiện nay: ấp NP, xã BN, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; cha vô danh - Mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1963 (đã chết); Anh, chị em ruột: Không có; Vợ: Dương Thị Hồng C, sinh năm 1983; chỗ ở hiện nay: ấp NP, xã BN, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh; Con: Có 02 người, người lớn nhất sinh năm 2006, người nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không có; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 10/01/2019, chuyển tạm giam ngày16/01/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 10/01/2019, tại Cơ sở điều trị Methadone, thuộc Khu phố S, Phường B, TPTN, tỉnh Tây Ninh, Công an thành phố Tây Ninh tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện Trần Văn P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ của Trần Văn P: 01 áo khoác màu đen, bên trong túi bên phải có 01 gói giấy bạc, bên trong gói giấy bạc có 03 đoạn ống hút màu trắng hàn kín 02 đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số sê ri: 355812098495814; 01 xe mô tô nhãn hiệu JAMOTO biển số 70B1- 294.33.

Quá trình điều tra, Trần Văn P khai nhận sử dụng trái phép chất ma túy và nghiện từ năm 2015, để có ma túy sử dụng P thường xuyên đến khu vực gần “Cầu Quan”, thuộc thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh mua của một người thanh niên tên “L” (không rõ họ tên, địa chỉ) đem về cất giấu sử dụng. Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 10/01/2019, Trần Văn P mượn xe mô tô nhãn hiệu JAMOTO biển số 70B1-294.33 của anh Nguyễn Văn H, sinh ngày: 16/4/1976, ngụ: ấp BH, xã TB, huyện CT, tỉnh Tây Ninh để đi uống Methadol. Sau khi mượn được xe, Trần Văn P điều khiển đến khu vực gần “Cầu Quan”, thuộc thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh tìm gặp người thanh niên tên “L” (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua 500.000 đồng ma túy, là loại Heroine. L đưa cho P 01 gói giấy bạc, bên trong có 03 đoạn ống hút màu trắng hàn kín 02 đầu, bên trong chứa chất ma túy. Sau khi có được ma túy, P cất giấu vào bên trong túi bên phải áo khoác màu đen P đang mặc trên người rồi điều khiển xe đến Cơ sở điều trị Methadol uống thuốc. Khi P vừa đến thì lực lượng Công an kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện Trần Văn P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nên lập biên bản bắt giữ P cùng tang vật.

* Kết luận giám định số 51/KL-KTHS ngày 12/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong 03 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín hai đầu (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; là loại Heroine; khối lượng 0,1868 gam.

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKSTP ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo Trần Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Kiểm sát viên phân tích tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn P từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Trần Văn P không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung 

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong số 51 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh có chữ ký của Giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý giám định Nguyễn Thị Xiếu; 01 áo khoác màu đen.

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số sê ri: 355812098495814.

Tại phiên tòa, bị cáo P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đã truy tố. Bị cáo không tranh luận với kiểm sát viên. Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo, những người tham gia tố tụng. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố thành phố Tây Ninh; Điều tra viên; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện:

Vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 10/01/2019, tại Cơ sở điều trị Methadone, thuộc Khu phố S, Phường B, TPTN, tỉnh Tây Ninh, Công an thành phố Tây Ninh tiến hành kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện Trần Văn P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ của P: 01 áo khoác màu đen, bên trong túi bên phải có 01 gói giấy bạc, bên trong gói giấy bạc có 03 đoạn ống hút màu trắng hàn kín 02 đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng đã được giám định số 51/KL- KTHS ngày 12/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận “là chất ma túy; là loại Heroine; khối lượng 0,1868 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội, tờ tự khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả thu giữ vật chứng, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định chất ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây tác hại rất lớn về trật tự an toàn xã hội, đạo đức lối sống, nguy hại cho sức khỏe của con người. Do đó, đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là lỗi cố ý, bản thân bị cáo đang thực hiện biện pháp cai nghiện tại Cơ sở điều trị Methadone, nhưng bị cáo không tự quyết tâm cai nghiện đến cùng, ngược lại bị cáo đã nhiều lần mua ma túy về tàng trữ để sử dụng nhằm thoả mãn cơn nghiện; nên khi quyết định hình phạt có xem xét để áp dụng một mức án phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục và góp phần phòng chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điểm s Khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng…”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu JAMOTO biển số 70B1- 294.33 đã trả cho chủ sở hữu phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

+ 01 gói niêm phong số 51 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh có chữ ký của Giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý giám định Nguyễn Thị Xiếu là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và 01 áo khoác màu đen không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu và tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số sê ri: 355812098495814 quá trình điều tra và xét hỏi công khai tại phiên tòa làm rõ bị cáo không dùng vào việc mua ma túy để sử dụng nên trả lại cho bị cáo.

Vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh đang quản lý.

[6] Đối với người đã bán trái phép chất ma túy cho P, do P khai không rõ họ tên, địa chỉ. Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau. Do đó, việc cơ quan điều tra không truy tố là phù hợp, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Trong phần luận tội, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều luật, xác định tội danh, xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Bị cáo Trần Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Điều 135 và

Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn P 01 (Một) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 10 tháng 01 năm 2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+ Tịch thu và tiêu hủy: 01 (Một) gói niêm phong số 51 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh có chữ ký của Giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý giám định Nguyễn Thị Xiếu; 01 (Một) áo khoác màu đen;

+ Trả lại cho bị cáo 01 (Một) điện thoại di động hiệu Nokia, số sê ri: 355812098495814.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 3 năm 2019).

3.Án phí: Bị cáo Trần Văn P phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn P được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HSST ngày 24/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về