Bản án 299/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 299/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 319/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 332/2020/QĐXXST-HS ngày 10/11/2020 đối với bị cáo:

NVV– sinh năm: 1982; HKTT và chỗ ở: Thôn ĐM, xã UN, huyện ĐA, TP. Hà Nội; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; con ông NVH và bà THK; Vợ: ĐTT; Có 02 con: Lớn SN 2010, nhỏ SN 2011; TATS: Theo danh chỉ bản số 488 ngày 28/7/2020 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 03 tiền án:

- Bản án HSST số 606 ngày 10, 11/5/2000, TAND thành phố Hà Nội xử phạt NVV 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân, buộc nộp sung công quỹ nhà nước 450.000 đồng, bồi thường cho ông NCT và ông NVH số tiền 1.504.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/02/2001. Tại biên bản xác m thi hành án ngày 22/9/2020, Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội cung cấp: Phần án phí HSST 50.000 đồng, án phí DSST 70.000 đồng và 450.000 đồng sung công quỹ nhà nước, Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội đã ủy thác cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh; đối với khoản bồi thường dâ n sự cho ông Thuận và ông Hưng, do chưa nhận được đơn yêu cầu thi hành án nên Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội chưa có căn cứ thụ lý, ra quyết định để tổ chức thi hành án. Tại biên bản xác m thi hành án ngày 05/10/2020, Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh cung cấp: V chưa nộp án phí HSST 50.000 đồng, án phí DSST 70.000 đồng và 450.000 đồng sung công quỹ nhà nước. Khi phạm tội NVV 17 tuổi 06 tháng 06 ngày, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng. Theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 107 BLHS 2015 thì người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội ít nghiêm trọng thì được coi là không có án tích. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho người phạm tội theo Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 thì NVV đã được xóa án tích này.

- Bản án HSST số 10 ngày 06/02/2002, TAND huyện Đông Anh, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 3.015.000 đồng là tiền do phạm tội mà có. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/5/2003. Xác m thi hành án tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh, kết quả: Vchưa nộp án phí HSST 50.000 đồng và tiền thu lợi bất chính 3.015.000 đồng. Bị cáo chưa được xóa án tích.

- Bản án HSST số 100 ngày 31/8/2005, TAND huyện Đông Anh, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Đánh bạc, hình phạt bổ sung 3.000.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2007. Xác m thi hành án tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh, kết quả: Vđã nộp án phí HSST 50.000 đồng và tiền phạt 300.000 đồng ngày 04/12/2012. Đối với tiền phạt 2.700.000 đồng, Vđược miễn thi hành án theo quyết định miễn số 15 ngày 04/3/2013 của TAND huyện Đông Anh. Bị cáo đã được xóa án tích.

Bị cáo phạm tội lần này là tái phạm.

BÞ cáo bị tạm giữ từ ngày 22/7/2020, bị tạm giam tõ ngµy 31/7/2020 đến nay tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phồ Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22h45 phút ngày 22/7/2020, Công an phường Gia Thụy phối hợp với Tổ công tác Y23/141 làm nhiệm vụ tại khu vực ngã ba Nguyễn Văn Cừ - Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội phát hiện 01 ô tô Toyota Vios màu đen, BKS: 30E - 195.71 có biểu hiện nghi vấn nên tổ công tác đã tiến hành dừng xe để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, trên xe có 05 nam thanh niên gồm:

1. Họ và tên: LTT - SN: 1981 (lái xe) HKTT: Đản Mỗ, Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội

2. NVV (ngồi ghế phụ lái)

3. Họ và tên: Bùi Văn D - SN: 1987 (ghế sau bên trái) HKTT: Xóm Gốc Thị, xã Nam Hòa, Đồng Hỷ, Thái Nguyên

4. Họ và tên: MVP - SN: 1993 (ghế sau giữa) HKTT: Xóm Gốc Thị, xã Nam Hòa, Nam Hòa, Đồng Hỷ, Thái Nguyên

5. Họ và tên: TVM - SN: 1997 (ghế sau bên phải) HKTT: Thôn Xuân Đài, xã Nguyệt Đức, Yên Lạc, Vĩnh Phúc Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện túi quần đùi bên trái NVV đang mặc có 01 túi nilong màu xanh, bên trong có:

- 03 gói nhựa màu hồng bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 02 gói nhựa màu cam bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 02 gói nhựa màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng hồng;

- 02 gói nhựa màu trắng đục bên trong chứa chất bột màu trắng (dạng tinh thể bị nghiền thành chất bột);

- 03 gói nhựa màu cam bên trong mỗi gói nhựa có chứa một viên nén màu đỏ;

- 01 gói nhựa màu hồng bên trong chứa hai viên nén màu đỏ.

Tại chỗ, NVV khai nhận là ma túy mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ tang vật, đưa V, T, D, P, M về trụ sở để giải quyết.

Tang vật thu giữ:

- 03 gói nhựa màu hồng bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 02 gói nhựa màu cam bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 02 gói nhựa màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng hồng;

- 02 gói nhựa màu trắng đục bên trong chứa chất bột màu trắng (dạng tinh thể bị nghiền thành chất bột);

- 03 gói nhựa màu cam bên trong mỗi gói nhựa có chứa một viên nén màu đỏ;

- 01 gói nhựa màu hồng bên trong chứa hai viên nén màu đỏ.

Tại Kết luận giám định số 6894 ngày 31/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 02 gói nhựa màu trắng đều là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,519 gam;

- Tinh thể màu trắng bên trong 07 gói nhựa (03 gói nhựa màu hồng, 02 gói n h ự a m à u c a m, 0 2 g ó i n h ự a m à u t r ắ n g đ ụ c ) đ ề u l à m a t ú y l o ạ i Mathamphetamine, tổng khối lượng 0,805 gam - 05 viên nén màu đỏ bên trong 04 gói nhựa (03 gói nhựa màu cam và 01 gói màu hồng) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,472 gam.

Tại cơ quan điều tra, NVV khai nhận:

Khoảng 19h00’ ngày 22/7/2020, NVV điều khiển xe máy đến cây xăng gần nhà máy Nhôm Đông Anh để đổ xăng. Do bản thân nghiện ma túy đá nên Vnảy sinh ý định tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại khu vực gần cây xăng, Vhỏi mua ma túy của một người đàn ông đang đỗ xe ở ven đường với giá 1.300.000 đồng. Người đàn ông này đưa cho V 01 túi nilong màu xanh bên trong có 02 gói nhựa màu trắng chứa tinh thể màu trắng, 07 gói nhựa (03 gói nhựa màu hồng, 02 gói nhựa màu cam và 02 gói nhựa màu trắng đục) chứa tinh thể màu trắng và 04 gói nhựa bên trong chứa 05 viên nén màu đỏ. Vcất số ma túy này vào túi quần bên trái đang mặc rồi đi về nhà. Khi về đến nhà, V thấy LTT (là người thuê vườn của V để gia công sắt) và BVD, MVP, TVM là thợ của T đang cùng nhau bốc sắt lên xe ô tô tải để chở sang khu vực phố cổ Hà Nội để lắp đặt công trình. Do thiếu người nên T nhờ Vcùng bốc hộ và đi cùng T đến công trình để bốc sắt từ ô tô xuống. Sau đó, Tđiều khiển xe ô tô Vios BKS: 30E - 195.71 chở V, D, P, M đi đến ngã ba Nguyễn Văn Cừ - Ngọc Lâm thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ số ma túy trên. Việc Vtàng trữ trái phép chất ma túy, T, D, P và M không biết. Đến khi bị cơ quan điều tra kiểm tra, phát hiện số ma túy trên, T, D, P và M mới biết.

Lời khai của NVV phù hợp với lời khai người làm chứng, các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Đối với LTT, BVD, MVP, TVM, quá trình điều tra xác định T, D, P, M không biết việc NVV tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến khi bị cơ quan điều tra kiểm tra, phát hiện số ma túy trên, T, D, P và M mới biết. Xét nghiệm nước tiểu của T, D, P, M kết quả âm tính với chất ma túy. Do đó, cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với Tuệ, D, P, M.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Vtại khu vực nhà máy Nhôm Đông Anh, Vkhai không biết tên tuổi, địa chỉ ở đâu, không nhớ rõ biển kiểm soát của xe máy. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota nhãn hiệu Vios, BKS: 30E - 195.71, SK: 4014284, SM: 280789, xe ô tô đăng ký chính chủ tên LTT. Tại cơ quan điều tra, anh LTTkhai mua mới chiếc xe ô tô trên tháng 11/2018, xe đăng ký chính chủ. Ngày 22/7/2020, anh Tsử dụng xe ô tô chở NVV, BVD, MVP, TVM chở sắt đến khu vực phố cổ Hà Nội để làm công trình. Việc Vtàng trữ trái phép chất ma túy, anh Tkhông biết. Ngày 15/10/2020, Cơ quan điều tra xử lý vật chứng trao trả chiếc xe ô tô Toyota Vios, BKS: 30E - 195.71 cho anh Lê Trọng Tuệ.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo NVV đã đủ yếu tố cấu thành tội:”Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của BLHS 2015; Điều 106 của BLTTHS.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Vmức án từ 20 đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 gói nhựa màu trắng bên trong đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,519 gam - Đề nghị tịch thu tiêu hủy 03 gói nhựa màu hồng,02 gói nhựa màu cam, 02 gói nhựa màu trắng đục bên trong đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamrphetamine, khối lượng 0,805 gam.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 3 gói nhựa màu cam và 01 gói màu hồng bên trong chứa 05 viên nén màu đỏ đều là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,472 Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 22h24’ ngày 22/7/2020, tại khu vực ngã ba Nguyễn Văn Cừ - Ngọc Lâm thuộc phường Gia Thụy, Long Biên, Hà Nội, NVV có hành vi tàng trữ trái phép 1,796 gam ma túy Methamphetamine, mục đích sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị công an phườ ng Gia Thụy phối hợp với tổ công tác 141 - Công an thành phố Hà Nội phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

[3] Hành vi của bị cáo NVV đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS: bị cáo phạm tội lần này là tái phạm do chưa được xóa án tích Bản án HSST số 10 ngày 06/02/2002, TAND huyện Đông Anh, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, buộc nộp sung công quỹ nhà nước số tiền 3.015.000 đồng là tiền do phạm tội mà có. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/5/2003. Xác m thi hành án tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh, kết quả: Vchưa nộp án phí HSST 50.000 đồng và tiền thu lợi bất chính 3.015.000 đồng. Bị cáo chưa được xóa án tích. nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo xét về tính chất, mức độ và nhân thân bị cáo xấu thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính duy nhất trong gia đình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7- Tịch thu tiêu hủy 02 gói nhựa màu trắng bên trong đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,519 gam - Tịch thu tiêu hủy 03 gói nhựa màu hồng,02 gói nhụa màu cam, 02 gói nhựa màu trắng đục bên trong đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamrphetamine, khối lượng 0,805 gam.

- Tịch thu tiêu hủy 3 gói nhựa màu cam và 01 gói màu hồng bên trong chứa 05 viên nén màu đỏ đều là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,472 Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo NVV phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: bị cáo NVV 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/7/2020

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 02 gói nhựa màu trắng bên trong đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,519 gam

- Tịch thu tiêu hủy 03 gói nhựa màu hồng,02 gói nhựa màu cam, 02 gói nhựa màu trắng đục bên trong đều chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamrphetamine, khối lượng 0,805 gam.

- Tịch thu tiêu hủy 3 gói nhựa màu cam và 01 gói màu hồng bên trong chứa 05 viên nén màu đỏ đều là ma túy loại Methamrphetamine, tổng khối lượng 0,472 gam.

Tổng khối lượng là 1,796 gam Methamrphetamine (Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày 23/9/2020).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 299/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:299/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về