Bản án 293/2020/HSPT ngày 29/09/2020 về tội buôn lậu

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 293/2020/HSPT NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI BUÔN LẬU

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 279/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn Xuân H do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Xuân H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HSST ngày 19/06/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyn Văn Xuân H (tên gọi khác: L); sinh ngày 10 tháng 3 năm 1980 tại Thừa Thiên Huế; Nơi ĐKNKTT và nơi ở: Nhà số 44 đường Đ, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Văn L và bà Ngô Thị H; vợ Nguyễn Thị Dạ T và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/8/2017 đã bị Phòng Cảnh sát môi trường Công an tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt hành chính 500.000 đồng về hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/5/2019 đến ngày 25/8/2019 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Xuân H có một thời gian buôn bán tại thành phố Pakse, tỉnh Champasak, nước CHDCND Lào, nên đã quen biết với hai người tên là X và N (không rõ nhân thân, lai lịch). Hai bên thỏa thuận, nếu có phụ tùng xe máy đã qua sử dụng, thì X và N điện thoại báo cho H biết để mua giá từ 700.000 đồng đến 800.000 đồng/01 bao tải, H sẽ gửi tiền trả theo xe khách chạy tuyến Huế - Lào.

Khong cuối tháng 3 năm 2019, X và N thu mua được phụ tùng xe máy đã qua sử dụng đóng thành 19 bao tải rồi điện thoại báo cho H biết. H đồng ý mua 19 bao tải này giá 15.000.000 đồng và bảo X và N tập kết hàng tại thành phố Pakse, tỉnh Champasak, nước Lào. Sau khi có hàng, H thuê Hoàng Đình N1 chở 19 bao tải trên về chợ Karon, huyện Sepon, tỉnh Savannakhet, nước Lào (giáp với cửa khẩu L, tỉnh Quảng Trị) đồng thời, H nhờ N1 tìm người thuê vận chuyển 19 bao tải này từ chợ Karon, huyện Sepon, tỉnh Savannakhet, nước Lào về cất giấu tại kho số 332 quốc lộ 9, khóm Tây Chín, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị, thì N1 đồng ý. N1 điện thoại cho Hồ Văn T để thuê vận chuyển số hàng nói trên, thì T đồng ý và hai bên thống nhất giá vận chuyển là 3.000.000 đồng. N1 điện thoại báo lại cho H biết thì H đồng ý. Sau đó, Hồ Văn T tiếp tục thuê Hồ Văn T1, Hồ Văn Q, Hồ Văn T2, Hồ Văn A X, Hồ Văn C và một đối tượng người Lào có tên là Ing cùng với mình tham gia vận chuyển. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, cả nhóm sử dụng xe mô tô vận chuyển lần lượt 19 bao tải bên trong đựng phụ tùng xe máy đã qua sử dụng chạy theo đường tiểu ngạch để qua biên giới nhằm trốn tránh sự kiểm soát, phát hiện của các cơ quan có chức năng tại cửa khẩu L, huyện Hướng hóa, tỉnh Quảng Trị đưa về kho số 332 quốc lộ 9, khóm Tây Chín, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị cất giấu cho đến 02 giờ sáng ngày hôm sau mới vận chuyển xong.

Sáng ngày 30 tháng 3 năm 2019, N1 báo cho H biết là hàng đã về cất giấu tại kho số 332 quốc lộ 9, khóm Tây Chín, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị. N1 dùng tiền của mình trả cho T 3.000.000 đồng, T chia đều cho mỗi người 400.000 đồng, còn 200.000 đồng mua nước cho cả nhóm uống. Sau đó, Nguyễn Văn Xuân H gửi 8.000.000 đồng cho xe khách chạy tuyền H - L trả cho N1 (5.000.000 đồng tiền công vận chuyển của N1 và 3.000.000 đồng tiền công vận chuyển của T).

Biết hàng của mình đã vận chuyển về cất giấu tại kho số 332 quốc lộ 9, khóm Tây Chín, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Văn Xuân H liên hệ với ông Nguyễn Đức C thuê vận chuyển về thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế cho mình thì C đồng ý vận chuyển với giá là 30.000 đồng/01 bao tải. Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 06 tháng 4 năm 2019, khi đang bốc số hàng lên xe ô tô để chở về Huế, thì bị Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Cục Cảnh sát giao thông Bộ Công an phát hiện lập biên bản sự việc vi phạm và tạm giữ 19 bao tải màu xanh bên trong đựng các phụ tùng linh kiện xe máy tháo rời đã qua sử dụng, không có hóa đơn, chứng từ thể hiện nguồn gốc xuất xứ.

Tang vật thu giữ gồm:

1. Bộ máy của xe máy: Số lượng 38, Bên ngoài có ghi dòng chữ Jet Coolet Suzuki (đã qua sử dụng), bao số 01 đên 13.

2. Bộ máy của xe máy: Số lượng 03, Bên ngoài có ghi dòng chữ Yamaha (đã qua sử dụng), bao số 14.

3. Nắp đầu nòng của xe máy, số lượng 69(đã qua sử dụng), bao số 15 đến 16.

4. Ống bô xe máy, số lượng 05(đã qua sử dụng), bên ngoài có ghi dòng chữ Tis341 - 1985 RU120 Thailand, bao số 17. 5. Gắp xe máy, số lượng 02 (đã qua sử dụng), bao số 17.

6. Mudơ xe máy có gắn đĩa phanh, số lương 05(đã qua sử dụng), bao số 18.

7. Cùi đĩa, số lượng 11(đã qua sử dụng), bao số 18.

8. Nắp má phanh, số lượng 04 (đã qua sử dụng), bao số 18.

9. Bộ Diatone, số lượng 17 (đã qua sử dụng), bao số 18.

10. Cuộn điện, số lượng 02 (đã qua sử dụng), bao số 18.

11. Bố phanh, số lượng 02 (đã qua sử dụng), bao số 18.

12. Mudơ xe máy, số lượng 34 Mudơ xe máy, bao số 19

13. Linh kiện xe máy nhiều chủng loại, chưa kiểm tra số lượng, đã qua sử dụng chưa xác định chủng loại, bao số 20.

Tại Bản kết luận số 1189/KL-HĐĐG ngày 17 tháng 5 năm 2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Thừa Thiên Huế xác định giá trị toàn bộ số tài sản trên là 118.360.000 đồng.

Ngoài ra, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế còn tạm giữ một số đồ vật, vật chứng có liên quan đến vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HSST ngày 19/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

Căn cứ khoản 1, 5 Điều 188; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Xuân H 06 (sáu) tháng tù về tội Buôn lậu”, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/5/2019 đến ngày 25/8/2019.

Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Xuân H phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 20.000.000 đồng.

Ngoài ra bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 29/9/2020, bị cáo Nguyễn Văn Xuân H kháng cáo xin hưởng án treo hoặc chuyển sang hình phạt tiền.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo xin được hưởng án treo vì mẹ già đau ốm, bị cáo còn con nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị cáo có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên đơn kháng cáo là hợp lệ.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi và tội danh như Toà án cấp sơ thẩm xét xử là đúng người, đúng tội. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng cuối tháng 3 năm 2019, Nguyễn Văn Xuân H mua linh kiện phụ tùng xe máy đã qua sử dụng của một người không quen biết tại thành phố Pakse, tỉnh Champasak, nước CHDCND Lào và thuê H Đình N1 vận chuyển về Việt Nam với giá 3.000.000 đồng. Sau đó N1 thuê Hồ Văn T rồi T gọi điện thoại cho Hồ Văn T1, Hồ Văn T2, Hồ Văn Q, Hồ Văn A X, Hồ Văn C cùng với T vận chuyển 19 bao tải bên trong đựng linh kiện phụ tùng xe máy đã qua sử dụng đưa về kho số 332 quốc lộ 9, khóm Tây Chín, thị trấn L, huyện H, tỉnh Quảng Trị cất giấu. Ngày 06/4/2019, khi đang bốc 19 bao tải bên trong đựng linh kiện phụ tùng xe máy đã qua sử dụng lên xe ô tô tải mang biển kiểm soát số 75C - 018.33 thì bị Công an tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Cục Cảnh sát giao thông Bộ Công an phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ tang vật trị giá 118.360.000 đồng. Hành vi buôn bán hàng hóa qua biên giới một cách trái phép của bị cáo Nguyễn Văn Xuân H đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế làm ảnh hưởng đến trật tự quản lý việc xuất, nhập khẩu hàng hoá của Nhà nước.

[3] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Tòa án cấp sơ thẩm xem xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có cơ sở.

Xét về nhân thân của bị cáo: Ngày 08/8/2017, Nguyễn Văn Xuân H bị Công an nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng về hành vi kinh doanh hàng hóa nhập lậu. Ngày 05/9/2017, bị cáo chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính nói trên. Như vậy, kể từ ngày 05/9/2017 (chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính) đến cuối tháng 3/2019 (thời điểm bị cáo H thực hiện hành vi phạm tội) là đã quá thời hạn 01 năm 06 tháng mà bị cáo không tái phạm nên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Xét thấy, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao quy định về điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo theo Điều 65 Bộ luật hình sự, thấy bị cáo có đủ điều kiện để cho hưởng án treo. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho cải tại tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng, phòng ngừa tội phạm nói chung. Bởi các lẽ trên, cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do đơn kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn Xuân H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Xuân H. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2020/HS-ST ngày 19/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Xuân H.

1. Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 188; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Xuân H 06 (sáu) tháng tù về tội Buôn lậu”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Hình phạt bổ sung là hình phạt tiền: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Xuân H phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Giao bị cáo Nguyễn Văn Xuân H cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Xuân H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

969
  • Tên bản án:
    Bản án 293/2020/HSPT ngày 29/09/2020 về tội buôn lậu
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    293/2020/HSPT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    29/09/2020
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 293/2020/HSPT ngày 29/09/2020 về tội buôn lậu

Số hiệu:293/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về