Bản án 29/2021/HSST ngày 03/03/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 29/2021/HSST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 03 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý 24/2021/HSST ngày 05/02/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐ-HSST ngày 08/02/2021 đối với bị cáo:

CHU THỊ D; sinh năm: 1962; tại Hà Nội; HKTT: phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội. Chỗ ở: như trên; Văn hóa: 07/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Con ông: Chu Văn T - Chết; Con bà: Phùng Thị H - Chết; Gia đình có 9 anh chị em, bị can là con thứ sáu. Chồng: Vũ Văn D - SN: 1962; Có 02 con, lớn SN: 1984, nhỏ SN: 1986. TATS: không Bị can bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 18/12/2020 đến 21/12/2020 được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1991 HKTT: xã Thụy Phong, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17h50 phút ngày 18/12/2020, tại đối diện số nhà 161 ngõ 531 đường Bát Khối, tổ 8 phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội, tổ công tác Đội ĐTTH Công an quận Long Biên phát hiện bắt quả tang Chu Thị D đang thực hiện hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức bán số đề cho Nguyễn Văn T (SN: 1991, HKTT: Thái Thụy, Thái Bình). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật.

Tang vật thu giữ của Chu Thị D: 01 bảng ghi lô đề ngày 18/12/2020; số tiền 8.960.000 đồng.

Tạm giữ của Nguyễn Văn T: 01 tờ tich kê ghi số đề ngày 18/12/2020. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Chu Thị D khai nhận:

Khoảng đầu tháng 12/2020, Chu Thị D ngồi bán nước tại đối diện số nhà 161 ngõ 531 đường Bát Khối, tổ 8 phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội và bán số lô, số đề cho khách để hưởng lợi. D quy định đối với số lô D thu của người mua là 22.000 đồng/01 điểm; đối với số đề, số lô xiên người chơi mua bao nhiêu thì D bán bấy nhiêu. Căn cứ vào các số lô, số đề khách đã mua sau đó D đối chiếu với kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng cùng ngày. Số đề được đối chiếu với 02 số cuối của giải đặc biệt, tỷ lệ thắng gấp 80 lần trị giá số tiền đã mua. Đối với số lô thường và lô xiên được đối chiếu với 02 số cuối cùng của tất cả các giải thưởng, nếu trúng thưởng 1 điểm thì người mua được 80.000 đồng, lô xiên 2 thắng gấp 10 lần giá trị số tiền đã mua, lô xiên 3 thắng gấp 40 lần giá trị số tiền đã mua, lô xiên 4 thắng gấp 100 lần giá trị số tiền đã mua. Khi có người mua số lô, số đề D ghi vào 01 tờ giấy giao cho người mua đồng thời D viết lại vào một tờ giấy khác, giữ lại để làm căn cứ thanh toán nếu người mua trúng. D trực tiếp thanh toán tiền thắng thua với người mua, không làm thư ký ghi lô, đề cho ai. Đến khoảng 17h50 phút ngày 18/12/2020 khi D đang bán số đề cho Nguyễn Văn T gồm các số 83,26,62,68,86,58,85,07,70,39,93,27,72,34,43 mỗi số 10.000 đồng, tổng cộng là 150.000 đồng (T đã thanh toán cho D số tiền trên) thì bị cơ quan công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ tang vật như đã nêu trên.

* Tại kết luận giám định số 9392/C09-P5 ngày 20/01/2021 của Viện Khoa học hình sự- Bộ Công an kết luận:

-Chữ viết, chữ ký trên các mẫu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ viết, chữ ký của Chu Thị D trên các mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 do cùng một người viết, ký ra (BL 17).

Xác định số tiền đánh bạc trong 01 bảng lô đề thu giữ của D ngày 18/12/2020 là 10.485.000 đồng. Căn cứ Nghị quyết số 01/2010/HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TANDTC xác định tổng số tiền đánh bạc Chu Thị D phải chịu trách nhiệm hình sự ngày 18/12/2020 là 10.485.000 đồng.

Lời khai của Chu Thị D phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn T và lời khai nhân chứng có mặt tại hiện trường cùng các tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 31 /CT-VKS ngày 03 / 02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Chu Thị D về tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn T và theo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Chu Thị D đã đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Chu Thị D mức án từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Về hình phạt bổ xung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 10.485.000 đồng. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 tờ tich kê ghi số đề ngày 18/12/2020.

Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức hành vi phạm tội của mình là sai, vi phạm pháp luật. Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng để cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo và xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, bản tự kiểm điểm cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản Cáo trạng của Viện Kiểm Sát đã truy tố, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17h50 phút ngày 18/12/2020, tại đối diện số nhà 161 ngõ 531 đường Bát Khối, tổ 8 phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà Nội, Chu Thị D có hành vi đánh bạc trái phép sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức bán số lô, số đề. Tổng số tiền Chu Thị D phải chịu trách nhiệm hình sự là 10.485.000 đồng.

Hành vi của Chu Thị D đã đủ dấu hiệu cấu thành tội Đánh bạc. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trật tự công cộng được Bộ luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội nên cần phải có hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nhận tội, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng.

[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử phạt bị cáo một mức tù trong khung hình phạt. Song khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy nên mở lượng khoan hồng cho bị cáo, chỉ cần xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 để tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị căn cứ mức hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công ăn việc làm, thu nhập không ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 Đại diện VKS đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Số tiền 8.960.000 đồng thu giữ của bị cáo là tiền do phạm tội mà có thu từ việc ghi số lô, số đề nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- 01 tờ tich kê ghi số đề ngày 18/12/2020 là vật chứng phạm tội nên cần lưu hồ sơ vụ án.

- Yêu cầu bị cáo truy nộp số tiền thu lời bất chính 1.525.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử lý về vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[9] Về các vấn đề khác:

Đối với các đối tượng tham gia đánh bạc bằng hình thức mua số lô, số đề trong vụ án do bị can D khai họ đều là khách qua đường, ngày 18/12/2020 D bán được cho khoảng 05 người, D không rõ tên tuổi địa chỉ cụ thể của những người này nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ làm rõ để xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với hành vi bán số lô, số đề từ ngày đầu tháng 12/2020 đến trước ngày 18/12/2020 của Chu Thị D do D khai không biết người mua là ai, số bảng cáp ghi số lô, số đề sau khi đối chiếu xong D đã tiêu hủy nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với D. D khai số tiền thắng thua mỗi ngày khác nhau nên D không nhớ cụ thể. D chỉ nhớ trong thời gian bán số lô, đề trên D được hưởng lợi khoảng 500.000 đồng.

Đối với Nguyễn Văn T là người mua số lô, số đề của D ngày 18/12/2020 với số tiền 150.000 đồng, theo quy định tại Nghị quyết số 01/2010/HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TANDTC chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Đánh bạc nên Công an quận Long Biên ra quyết định xử phạt hành chính đối với T về hành vi Đánh bạc là có căn cứ.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt : Bị cáo Chu Thị D 12 ( Mười hai ) tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách là 24( Hai mươi tư ) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Chu Thị D cho Ủy ban nhân dân phường Thạch Bàn, Long Biên, Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án Hình sự từ 2 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 8.960.000 đồng.

(Theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 25/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên) - Buộc bị cáo D phải truy nộp số tiền 1.525.000 đồng tiền thu lời bất chính - Lưu hồ sơ vụ án 01 tờ tich kê ghi số đề ngày 18/12/2020.

3. Về án phí : Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HSST ngày 03/03/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:29/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về