Bản án 29/2021/HSPT ngày 06/05/2021 về tội chống người thi hành công vụ

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 29/2021/HSPT NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 26/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HSST ngày 04/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: VÕ THIỆN T, sinh năm 1967; tại huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Nơi cư trú: Ấp I, xã V.P.T, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn H, sinh năm 1920 (đã chết) và bà Trần Thị N, sinh năm 1926 (đã chết); bị cáo có vợ tên Trần Thị Th, sinh năm 1968 và 03 người con (lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1997); Tiền án, tiền sự: chưa có; bị cáo tại ngoại (có mặt).

2. Họ và tên: NGUYỄN THỊ T1, sinh năm 1979; tại huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Tên gọi khác: Th.

Nơi cư trú: Ấp A, xã V.M.A, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: làm vuông; Trình độ văn hóa (học vấn): 05/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1960 và bà Trương Thị N, sinh năm 1960; bị cáo có chồng tên Nguyễn Anh C, sinh năm 1969 và 01 người con; Tiền án, tiền sự: chưa có; bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị T1: Ông Lê Hữu Vân là luật sư Công ty luật TNHH Hoàng Giáp, thuộc đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1978. Địa chỉ: ấp L, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

2. Ông Danh Vũ Đ, sinh năm 1997. Địa chỉ: ấp T, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ ngày 19/11/2019, tại ấp I, xã V.P.T, huyện P, tỉnh Bạc Liêu; Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Phước Long tiến hành triển khai Quyết định cưỡng chế số 02 ngày 07/11/2019 đối với Võ Thiện T và Trần Thị Th theo quy định của pháp luật. Sau khi triển khai Quyết định cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên chủ trì đề nghị, chỉ huy Công an bảo vệ buổi cưỡng chế triển khai kế hoạch và phương án bảo vệ buổi cưỡng chế theo quy định và yêu cầu cơ quan chuyên môn thực hiện nhiệm vụ đo đạc, xác định đúng vị trí ranh đất và tài sản có trên đất giao cho ông Nguyễn Văn Ph.

Quá trình đo đạc, xác định vị trí đất ở cột mốc trụ đá đầu tiên diễn ra bình thường, khi cấm trụ đá thứ hai Võ Thiện T chống đối, lực lượng Công an bảo vệ buổi cưỡng chế can thiệp nên lực lượng cưỡng chế tiến hành cấm xong cột mốc thứ nhất đến cột mốc thứ tư.

Đến cột mốc thứ năm, Võ Thiện T, Nguyễn Thị T1 chống đối quyết liệt không cho lực lượng cưỡng chế thi hành án làm nhiệm vụ. Trong lúc chống đối lại lực lượng Công an bảo vệ cưỡng chế thi hành án, Nguyễn Thị T1 đã có hành vi dùng tay phải giật đứt cầu vai quân hàm thiếu tá bên phải cảnh phục Công an nhân dân đang mặc trên người của Nguyễn Thanh P (Thiếu tá- Phó đội trưởng đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, Công an huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu) là tổ trưởng tổ bảo vệ cưỡng chế ngày 19/11/2019. Tiếp theo đó, Võ Thiện T đã có hành vi dùng tay phải đánh vào phần mặt phía bên trái của Nguyễn Thanh P. Khi sự việc xảy ra, lực lượng Công an bảo vệ cưỡng chế dùng công cụ hỗ trợ khống chế, giữ Võ Thiện T, lúc này Trần Thị Th và Võ Thị H đã có hành vi dùng tay phải đánh vào vai, cổ bên phải và dùng hai tay kéo Huỳnh Văn Tr, (Thiếu tá- cán bộ đội Xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, Công an huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu) đang khống chế giữ Võ Thiện T;

Nguyễn Thanh B (Đại úy Công an) chỉ khóa được một tay trái của Võ Thiện T, sau đó Võ Thiện T đã chạy thoát khỏi khu vực cưỡng chế đi về nhà mang theo 01 khóa tay (Còng số 8).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 09/TgT ngày 25/12/2019 của Trung Tâm pháp y Bạc Liêu kết luận thương tích Nguyễn Thanh P như sau: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03%. Vật gây thương tích do vật tầy.

Tại kết luận giám định số 1943/C09B ngày 19/5/2020 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: 07 (Bảy) tập tin hình ảnh (video) gửi giám định là liên tục, không phát hiện dấu vết chỉnh sửa, cắt ghép về nội dung; Nội dung trong tập tin hình ảnh video có tên “01943.MTS” lưu trong đĩa DVD ghi nhận 04 (bốn) đối tượng người có hành vi chống đối, cản trở lực lượng tham gia cưỡng chế (Có bản ảnh đính kèm). Nội dung tập tin hình ảnh (Video) có tên “01936.MTS” lưu trong đĩa DVD (Ký hiệu A1) và 05 (Năm) tập tin hình ảnh (Video) lưu trong thẻ nhớ Micro SD 4GB (ký hiệu A2) không ghi nhận hành vi chống đối, cản trở lực lượng tham gia cưỡng chế.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HSST ngày 04/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu, đã quyết định:

1/ Tuyên bố các bị cáo Võ Thiện T, Nguyễn Thị T1 (Th), phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

2/ Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Võ Thiện T mức án 12 (Mười hai) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

3/ Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 (Th) mức án 09 (Chín) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/02/2021, bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1 kháng cáo kêu oan, yêu cầu hủy toàn bộ vụ án để làm sáng tỏ lại vụ việc. Ngày 23/4/2021 bị cáo Nguyễn Thị T1 thay đổi nội dung kháng cáo, với nội dung kháng cáo xin giảm án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo của các bị cáo còn trong thời hạn luật định nên cấp phúc thẩm chấp nhận và đưa ra xét xử là hợp lệ. Việc thay đổi nội dung kháng cáo của bị cáo T1 là phù hợp Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự nên có căn cứ chấp nhận.

Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ cótrong hồ sơ vụ án cũng như quá trình xét hỏi tại phiên tòa có đủ căn cứ xác định: Vào ngày 19/11/2019 tại ấp I, xã V.P.T, huyện P, tỉnh Bạc Liêu các bị cáo Võ Thiện T, Nguyễn Thị T1 đã có hành vi chống đối lực lương công an bảo vệ cưỡng chế thi hành án. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1, về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Do đó, bị cáo Võ Thiện T kháng cáo kêu oan là không có căn cứ chấp nhận. Đối với bị cáo Nguyễn Thị T1, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, đây là tình tiết giảm nhẹ mới. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Võ Thiện T; chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo Nguyễn Thị T1, giảm hình phạt cho bị cáo từ 02 đến 03 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị T1 có quan điểm bào chữa: Thống nhất với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng cho bị cáo T1. Đồng thời, mong Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo T1 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mặt khác, bị cáo là người có học vấn thấp nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế; sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nhận thức được hành vi sai trái của mình, tại phiên tòa phúc thẩm đã thừa nhận hành vi phạm tội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 65 Bộ luật hình sự, cho bị cáo T1 được hưởng án treo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1 thừa nhận hình ảnh trong các đoạn Video và ảnh được cắt từ Video trên được lưu hồ sơ vụ án là hình ảnh của các bị cáo tại buổi cưỡng chế ngày 19/11/2019, ở ấp I, xã V.P.T, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Tuy nhiên, bị cáo Võ Thiện T xác định không thực hiện hành vi chống lại hay cản trở lực lượng công an làm nhiệm vụ bảo vệ cưỡng chế. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Phước Long tuyên bố bị cáo phạm tội “Chống người thi hành công vụ” là không đúng.

[2] Qua lời bào chữa của các bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo T1, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chứng minh được: Ngày 19/11/2019 bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1 biết được lực lượng công an cùng các cơ quan chức năng cưỡng chế thi hành án đối với bị cáo Võ Thiện T. Thế nhưng, khi lực lượng được phân công tiến hành cấm cột mốc, bị cáo T đã có hành vi nhổ cột mốc mà cơ quan chức năng đã cậm để thi hành án; dùng tay đánh vào mặt của Nguyễn Thanh P là Công an huyện Phước Long được giao nhiệm vụ bảo vệ cưỡng chế. Bị cáo Nguyễn Thị T1 đã có hành vi dùng tay giật đứt cầu vai cảnh phục của Nguyễn Thanh P. Mục đích, thực hiện hành vi trên của bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1 là nhằm cản trở những người thi hành công vụ, không cho họ thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao.

[3] Hành vi của bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1 là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính nhà nước; xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước và người thực hiện nhiệm vụ công vụ. Đủ yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HSST ngày 04/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu đã xử phạt đối với bị cáo Võ Thiện T và bị cáo Nguyễn Thị T1 về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai. Do đó, bị cáo Võ Thiện T kháng cáo kêu oan và yêu cầu hủy án sơ thẩm là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử xét thấy: Giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có căn cứ chấp nhận. Qua đó, thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải của bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ mới so với bản án sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T1, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Do đó, kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thiện T; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T1, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo Võ Thiện T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo Nguyễn Thị T1 không phải chịu án phí.

[7] Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356 ; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thiện T; chấp nhận kháng cáo xin giảm án của bị cáo Nguyễn Thị T1 (Th); Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 04/2021/HSST ngày 04/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị T1 (Th).

2. Tuyên bố các bị cáo Võ Thiện T, Nguyễn Thị T1 (Th), phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Võ Thiện T 01 (một) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

4. Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T1 (Th) 03 (ba) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

5. Về án phí: Căn cứ các điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Võ Thiện T phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2021/HSPT ngày 06/05/2021 về tội chống người thi hành công vụ

Số hiệu:29/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về