Bản án 29/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 28/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điên Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 03/6/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HS ngày 16/7/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bế Thế H; sinh ngày 11/7/1992 tại huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nơi ĐKHKTT: Đội 3, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Chỗ ở: Đội 3, xã , huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bế Ngọc H và bà Lê Thị L; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/02/2020, sau đó tạm giam từ ngày 26/02/2020 cho tới nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 45 phút, ngày 17/02/2020, tổ công tác Đồn Biên phòng S làm nhiệm vụ tại khu vực Mốc 65 biên giới Việt Nam – Lào thuộc địa phận bản G, xã C, huyện N, tỉnh Điện Biên, phát hiện Bế Thế H và Hàng A L đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật nên đã yêu cầu 02 người dừng lại để kiểm tra. Sau khi kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong lòng bàn tay trái của Bế Thế H có 02 gói đều được gói bằng nilon màu trắng được hơ lửa dán kín, mở bên trong 01 gói có chất bột màu trắng đục và 01 gói có 05 viên nén màu hồng, trên mặt mỗi viên đều có ký hiệu là WY. Tổ công tác tiến hành kiểm tra Hàng A L thì không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì. Tổ công tác mời người chứng kiến, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nilon màu trắng chứa chất bột dạng nén màu trắng đục; 01 gói nilon màu trắng chứa 05 viên nén màu hồng, trên mặt mỗi viên có ký hiệu WY. Tổ công tác đã đưa Bế Thế H và Hàng A L cùng toàn bộ vật chứng về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N để điều tra làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Bế Thế H và Hàng A L đều khai nhận: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 17/02/2020, Bế Thế H đi bộ từ lán công trình làm nhà văn hóa của bản Hô Hài, xã Chà Cang, huyện N sang nhà Hàng A L ở cùng bản Hô Hài để thuê L dẫn đi mua ma túy, L đồng ý và yêu cầu H phải trả công cho L số tiền 120.000 đồng. Sau đó, L đã dẫn H đi bộ lên khu vực Mốc 65 biên giới Việt Nam – Lào thuộc địa phận bản Đ, xã C, huyện N gặp một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 60 tuổi. Sau khi trao đổi, H đã mua của người phụ nữ dân tộc Mông 01 gói Heroine với giá 770.000 đồng và 05 viên ma túy tổng hợp với giá 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H trả cho L số tiền công là 110.000 đồng, L dùng số tiền này để mua 01 gói Heroine của người phụ nữ dân tộc Mông. Sau đó, H và L đi bộ đến khe suối thuộc khu vực bản Đ, xã C cùng nhau sử dụng hết số Heroine mà L đã mua, còn số ma túy mà H đã mua, bị tổ công tác Đồn biên phòng S thu giữ. Mục đích Bế Thế H mua ma túy là để tàng trữ sử dụng cho bản thân vì H là người nghiện ma túy. Còn Hàng A L dẫn H đi mua ma túy là để lấy tiền công và L cũng dùng hết số tiền này để mua ma túy sử dụng.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 18/02/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N xác định: 01 gói chất bột dạng nén màu trắng đục thu giữ trên tay Bế Thế H có khối lượng 3,37 (ba phẩy ba mươi bẩy) gam, lấy mẫu giám định 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam, còn lại 3,11 (ba phẩy mười một) gam và 05 viên ma túy tổng hợp có khối lượng 0,54 (không phẩy năm mươi tư) gam, lấy mẫu giám định 0,21 (không phẩy hai mươi mốt) gam, còn lại 0,33 (không phẩy ba mươi ba) gam.

Tại Bản kết luận giám định số: 193/GĐ-PC09, ngày 25/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Bế Thế H cùng đồng phạm gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Bế Thế H cùng đồng phạm gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine… Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018".

Tại giai đoạn truy tố, bị can Hàng A L đã chết do bệnh lý tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên đã ra Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Hàng A L theo Quyết định số 01/QĐ- VKSNP, ngày 22/5/2020.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSNP ngày 03/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Bế Thế H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Bế Thế H đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình phù hợp với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bế Thế H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Bế Thế H từ 03 (năm) 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm tù; áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ vật chứng của vụ án là Heroine, Methamphetamine cùng toàn bộ nilon. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Bế Thế H nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh và điều luật Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Bế Thế H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình: Vào hồi 13 giờ 00 phút, ngày 17/02/2020, Bế Thế H đã thuê Hàng A L dẫn H đi mua ma túy với giá 110.000 đồng. Sau khi L dẫn H đi mua được ma túy, đến khoảng 17 giờ 45 phút ngày 17/02/2020 khi cả 02 đang trên đường đi bộ về tới khu vực Mốc 65, biên giới Việt Nam – Lào thuộc địa phận bản Đ, xã C, huyện N thì bị tổ công tác Đồn biên phòng S phát hiện, bắt quả tang. Khối lượng chất ma túy mà Bế Thế H tàng trữ là 3,37 gam Heroine và 0,54 gam Methamphetamine, tổng khối lượng hai chất ma túy mà bị cáo tàng trữ là 3,91 gam. Mục đích bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo là người nghiện ma túy. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị can Hàng A L, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ.

Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bế Thế H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… c) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này”

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đã và đang đi ngược lại với chủ trương của Đảng, Nhà nước ta trong việc cấm trồng, sử dụng, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa bàn huyện N. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Bị cáo là người nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng, bị cáo đã trả công cho Hàng A L dẫn đi mua ma túy. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, không bị ai xúi giục. Do đó, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cải tạo bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời làm gương răn đe giáo dục các đối tượng khác đang và đã có hành vi như bị cáo nhưng chưa bị phát hiện, xử lý.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Bế Thế H xuất thân trong gia đình nông dân, nhưng không chịu lao động, sống buông thả nên đã nghiện ma túy. Ngoài lần phạm tội này, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Khi bị bắt giữ bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội. Tại phiên tòa, bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định (Biên bản xác minh ngày 24/02/2020 và 04/3/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N) nên bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là Heroine, Methamphetamine và toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Trong vụ án Bế Thế H thuê Hàng A L dẫn đi mua ma túy của người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 60 tuổi, vào chiều ngày 17/02/2020 tại khu vực Mốc 65 biên giới Việt Nam – Lào thuộc địa phận bản Đ, xã C, huyện N, tỉnh Điện Biên. Do bị cáo không biết tên, địa chỉ cụ thể của người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo ở đâu, ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có căn cứ để điều tra, làm rõ xử lý theo quy định, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét. Đối với Hàng A L là đồng phạm với bị cáo Bế Thế H trong vụ án này, nhưng tại giai đoạn truy tố Hàng A L đã chết, Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can. Căn cứ Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy việc đình chỉ vụ án đối với bị can Hàng A L của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, bị cáo Bế Thế H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bế Thế H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bế Thế H 03 (ba) năm (08) tám tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 17/02/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 3,11 (ba phẩy mười một) gam Heroine và 0,33 (không phẩy ba mươi ba) gam Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, cùng toàn bộ nilon, phong bì niêm phong cũ.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/6/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết): Bị cáo Bế Thế H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Bế Thế H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 28/7/2020./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 28/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về