Bản án 29/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HỒNG LĨNH - TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 20 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa hình sự công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2020/HSST ngày 30 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 30/2020/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ tên: Trần H C; Giới tính: Nam; Tên gọi khác:Không. Sinh ngày 16 tháng 6 năm 1983, tại: Xã Diễn Tháp, Diễn Châu, Nghệ An. Nơi cư trú: Thôn Đông Vĩnh, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông. Đảng phái: Không; Trình độ học vấn: 2/12. Họ và tên cha: Trần Q M (Đã chết). Họ và tên mẹ: Nguyễn Th H - Sinh năm 1958. Anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ hai.Vợ: Lê Th H, sinh năm 1984 (Đã ly hôn).Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất 2012.

Tiền sự: Không Tiền án: Có 01 tiền án. Ngày 27/12/2011, Trần H C bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 13 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phải nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm 200.000 đồng, tiền phạt bổ sung 10.000.000 đồng. Đến ngày 20/01/2020, Trần H C chấp hành xong án phạt tù và chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14/9/2020 đến ngày 15/9/2020 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Th H, sinh ngày 10/8/1958, trú tại: Thôn Đông Vĩnh, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Có mặt tại phiên toà.

* Người chứng kiến:

Anh Phan V C, sinh năm 1971. Trú tại: Tổ dân phố Thuận Hồng, phường Đức Thuận, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ ngày 13/9/2020, Trần H C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 38C1-26072 từ nhà mình đi theo đường Quốc lộ 1A ra xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, C đi đến khu vực ngã ba cầu Bùng thuộc thôn 7, xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An với mục đích mua ma túy về sử dụng gặp một người đàn ông không quen biết hỏi: Để cho trăm viên (ý hỏi mua chất ma túy loại Hồng phiến với số lượng 100 viên), người đàn ông đó nói: Một trăm viên một triệu đồng. C đồng ý và đưa cho người đàn ông đó số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi cầm tiền, người đàn ông đó nói: Chờ một tý. Người đàn ông đó điều khiển xe mô tô đi khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho C 01 gói nilon màu đen, C biết bên trong có chứa chất ma túy loại Hồng phiến nên không mở ra kiểm tra mà cất giấu vào lưng quần bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Trần H C về đến đường Nguyễn Ái Quốc thuộc tổ dân phố Bấn Xá, phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh thì bị Công an thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh tiến hành kiểm tra, yêu cầu C đưa ra các đồ vật liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật giao nộp. Lúc này, C tự nguyện lấy từ lưng quần đang mặc trên người 01 gói bên ngoài được gói bằng nilon màu đen ra giao nộp. Công an thị xã Hồng Lĩnh kiểm tra thấy bên ngoài được gói bằng nilon màu đen, bên trong là 01 túi nilon màu xanh, kích thước 6,5 x 09 cm, đựng 01 bọc khác bên ngoài được gói bằng nilon màu đen, bên trong có chứa 99 viên nén, hình trụ tròn, trong đó có 98 viên màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ “WY” và 01 viên màu xanh nghi là chất ma túy. C thừa nhận 99 viên nén hình trụ tròn có trong bọc nilon nói trên là chất ma túy tổng hợp loại Hồng phiến mua về nhà để sử dụng thì bị phát hiện. Công an thị xã Hồng Lĩnh đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ, niêm phong vật chứng và yêu cầu Trần H C về trụ sở cơ quan Công an để điều tra làm rõ.

Ngày 14/9/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh có kết luận giám định số 196/GĐMT-PC09 kết luận:

- 98 viên nén hình trụ tròn màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có chữ “WY” chứa trong gói nilon màu đen bỏ trong túi nilon màu xanh kích thước (6,5 x 09) cm được bọc bên ngoài bằng gói nilon màu đen thu giữ của Trần H C gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 9,6863 gam, là Methamphetamine.

Methamphetamin là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- 01 viên nén màu xanh chứa trong gói nilon màu đen bỏ trong túi nilon màu xanh kích thước (6,5 x 09)cm được bọc bên ngoài bằng gói nilon màu đen thu giữ của Trần H C gửi giám định có khối lượng 0,0835 gam, không phải là chất ma túy.

* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật và xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh đã thu giữ như sau:

- 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của đối tượng Trần H C và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 9,6863 gam là Methamphetamine (đã lấy mẫu giám định hết 0,5793 gam), còn lại 9,1905gam là Methamphetamine.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, loại Galaxy M20, vỏ màu xanh, số IMEI1: 354556101481979, số IMEI2: 354557101481977, đã qua sử dụng và số tiền 350.000 đồng đều là tài sản của Trần H C, không sử dụng liên quan đến hoạt động phạm tội.

Số vật chứng nêu trên sẽ chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh để xử lý theo quy định của pháp luật.

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 38C1-260.72, nhãn hiệu HONDA, loại Lead, sơn màu trắng-nâu-bạc, số khung: 7910HY016882, số máy: JF79E002369 đã qua sử dụng, là tài sản của bà Nguyễn Th H cho Trần H C mượn để sử dụng nhưng không biết Trần H C mượn để thực hiện hành vi phạm tội. Sau khi điều tra làm rõ, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Hồng Lĩnh đã trả lại cho chủ sở hữu.

Bản Cáo trạng số 30/CT-VKS-TXHL ngày 28 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Trần H C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm g,o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần H C mức án từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 14/9/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Trần H C quá trình sinh sống tại địa phương không có nghề nghiệp ổn định, là đối tượng nghiện ma túy nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

b) Về trách nhiệm dân sự: Không.

c) Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của đối tượng Trần H C và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 9,1905gam là Methamphetamine.

- Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, loại Galaxy M20, vỏ màu xanh, số IMEI1: 354.556.101.481.979, số IMEI2: 354.557.101.481.977, đã qua sử dụng và số tiền 350.000 đồng đều là tài sản của bị cáo Trần H C, không sử dụng liên quan đến hành vi phạm tội.

Về án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Trần H C phải nộp 200.000đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hồng Lĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần H C đã khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 13/9/2020, Trần H C một mình điều khiển xe mô tô + biển kiểm soát 38C1-260.72 đi từ nhà đến khu vực cầu Bùng thuộc thôn 7, xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An mua ma túy 100 viên Hồng phiến của một người đàn ông không quen biết với số tiền 1.000.000 đồng để về sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi trên đường về đến đường Nguyễn Ái Quốc thuộc tổ dân phố Bấn Xá, phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh thì bị Công an thị xã Hồng Lĩnh phát hiện, bắt quả tang Trần H C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người 9,6863 gam là Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng. Lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, với lời khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, bản kết luận giám định và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở khẳng định bị cáo Trần H C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trên người 9,6863 gam là Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng. Vì vậy đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cho nên cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Hồng Lĩnh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm o, g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn chính xác, đúng người, đúng tội, không có gì oan sai.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, điều đó chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật, không có ý thức cải tạo, vì vậy cần xử bị cáo nghiêm minh trước pháp luật và cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để cải tạo, giao dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.

[4]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cần áp dụng cho bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự;

nh tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Trong vụ án có bà Nguyễn Th H, trú tại thôn Đông Vĩnh, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38C1-260.72 đã cho Trần H C mượn để làm phương tiện đi lại. Quá trình sử dụng xe mô tô Trần H C đã sử dụng để làm phương tiện đi mua chất ma túy và bị phát hiện bắt quả tang. Tuy nhiên, việc Trần H C tự ý sử dụng xe mô tô làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội bà Nguyễn Th H không biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với bà Nguyễn Th H là có căn cứ.

- Đối với người đàn ông không quen biết là người bán chất ma túy với số tiền 1.000.000 đồng cho Trần H C tại khu vực ngã ba cầu Bùng thuộc thôn 7, xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã phối hợp với Công an xã Diễn Kỷ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An tiến hành rà soát, xác minh đối tượng nêu trên nhưng không xác định được, do đó không có căn cứ để xử lý theo quy định.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản có giá trị liên quan đến hành vi phạm tội nên không cần thiết áp dụng hình phạt tiền.

[7] Về vật chứng: 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của đối tượng Trần H C và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 9,1905gam là Methamphetamine cần tịch thu tiêu huỷ.

01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, loại Galaxy M20, vỏ màu xanh, số IMEI1: 354556101481979, số IMEI2: 354557101481977, đã qua sử dụng và số tiền 350.000 đồng đều là tài sản của Trần H C, không sử dụng liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo [8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[9]. Về đề nghị của Đại diện viện kiểm sát: HĐXX xét thấy lời đề nghị giải quyết toàn bộ vụ án như trên là hoàn toàn chính xác, phù hợp với quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần H C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm g,o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần H C 7 ( Bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo 14/9/2020.

2. Về vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên ngoài phong bì thư có chữ ký của đối tượng Trần H C và các thành phần có liên quan, bên trong chứa 9,1905gam là Methamphetamine.

- Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, loại Galaxy M20, vỏ màu xanh, số IMEI1: 354.556.101.481.979, số IMEI2: 354.557.101.481.977, đã qua sử dụng và số tiền 350.000 đồng đều là tài sản của bị cáo Trần H C, không sử dụng liên quan đến hoạt động phạm tội.

Các vật chứng nêu trên có đặc điểm, tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan công an thị xã Hồng Lĩnh và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hồng Lĩnh ngày 28 tháng 10 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần H C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về