Bản án 29/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LỮ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 29/2019/HSST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã D, huyện T, tỉnh Hưng Yên, Tòa án nhân dân huyện T mở phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn K, sinh năm 1973; HKTT: thôn G, xã G, huyện T, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Phạm Văn L (đã chết) và bà Hoàng Thị S; có vợ là Trần Thị H và 03 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/6/2019 đến ngày 10/6/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên “có mặt tại phiên tòa”. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Trần Thị H, sinh năm 1973. Có mặt

Địa chỉ:thôn G, xã G, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

Người làm chứng:

- AnhVũ Văn T, sinh năm 1972 “vắng mặt”.

Đa chỉ: Khu tập thể H, đường T, phường A, thành phố H, tỉnh Hưng Yên.

-Ông Trần Văn V, sinh năm 1969. "Vắng mặt"

Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

-Chị Phạm Thị D, sinh năm 1995. "Vắng mặt"

Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 07/6/2019 tại đường bê tông khu vực trước cổng trường THPT T thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hưng Yên, Công an huyện T cùng Công an xã T phát hiện bắt quả tang Phạm Văn K, sinh năm 1973 ở thôn G, xã G, huyện T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream không có biển kiểm soát, tàng trữ trong lòng bàn tay trái 01 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục và bột, được niêm phong ký hiệu M1. K thừa nhận là Heroin K mua của một người phụ nữ không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực trước cổng trường THPT T với giá 500.000đ về để sử dụng. Ngoài ra không phát hiện, thu giữ, quản lý gì khác.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn K tại thôn G, xã G, huyện T, kết quả không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số: 360/PC 09 ngày 10/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ghi M1 thu của Phạm Văn K, có khối lượng là 0,207g là ma túy loại Heroine.

Đi với người phụ nữ bán ma túy cho K, tài liệu điều tra đến nay không làm rõ nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xem xét xử lý.

Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong hoàn lại mẫu vật sau giám định có dấu giáp lai và chữ ký của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên và 01 xe mô tô không có biển kiểm soát có số khung: C100M0000814; số máy: C100ME0000814 thu của K hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng-Công an huyện T.

Quá trình điều tra Phạm Văn K đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 29/CT-VKS-TL ngày 08/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử thẩm tra công khai tại phiên tòa; lời khai của bị cáo tại phiên tòa thừa nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/6/2019, tại đường bê tông khu vực trước cổng trường THPT T thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hưng Yên, Phạm Văn K có hành vi tàng trữ trái phép 0,207g Heroin, thì bị lực lượng Công an huyện T bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu T tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, VKSND huyện T giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51BLHS, xử phạt bị cáo K từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù., thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo . Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX tuyên tịch thu cho tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định số 360/PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên. Trả lại bị cáo K 01 xe mô tô nhãn hiệu DREAM, không biển số, có số khung: C100M0000814; số máy: C100ME0000814.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí sơ thẩm hình sự.

Bị cáo K tự bào chữa: Nhất trí với cáo trạng đã truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T xác định bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 07/6/2019; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 07/6/2019; Kết luận giám định số 360/PC09 ngày 10/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện T có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 07/6/2019, tại đường bê tông khu vực trước cổng trường THPT T thuộc địa phận thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Hưng Yên, Phạm Văn K có hành vi tàng trữ trái phép 0,207g Heroin để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện T bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, làm gia tăng tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước.

[4]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.

Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo T khẩn khai báo với thái độ ăn năn, hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích và nhận định như trên, Hội đồng xét xử xét thấy phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, có ý thức tuân thủ, tôn trọng pháp luật, đáp ứng nhu cầu phòng ngừa tội phạm chung trong toàn xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa là phù hợp.

[5]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà cho thấy bị cáo làm nghề trồng trọt, thu nhập không ổn định, gia đình khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Mẫu vật hoàn lại sau giám định số 360/PC09 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên được niêm phong là vật bị Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu DREAM, không biển số, có số khung: C100M0000814; số máy: C100ME0000814 là của bị cáo do lao động mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đi với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra đến nay không làm rõ nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xem xét xử lý là phù hợp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

[8] Luận tội và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác cần giải quyết trong vụ án là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 45, 46, 260, 268, 269, 299, 326, 327, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt bị cáo Phạm Văn K 01 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 07/6/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong mẫu vật hoàn lại sau giám định số 360/PC09 ngày 10/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên.

Trả lại bị cáo K 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu DREAM, không biển số, có số khung: C100M0000814; số máy: C100ME0000814.

(Tình trạng, số lượng vật chứng theo phiếu nhập kho ngày 21/8/2019 giữa cơ quan Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T).

Về án phí: Bị cáo Phạm Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí sơ thẩm hình sự.

Án xử công khai có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên để xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lữ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về