Bản án 29/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 29/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu xét xử sơ thẩm công kH vụ án hình sự thụ lý số 26/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2019/QĐXXST-HS ngày 25/7/2019 đối với bị cáo:

Phan Văn Công D, sinh năm 1974; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khóm LTA, phường LT, thị xã TC, tỉnh A; nơi cư trú: khóm LTC, phường LH, thị xã TC, tỉnh A; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Giới tính: nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: đạo phật; con ông Phan Văn Ngọc Đ, sinh năm 1945 (chết) và bà Bùi Thị Kim H, sinh năm 1953; vợ Lâm Thị T, sinh năm 1984; Có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: Không Ngày 12/7/2019, Phan Văn Công D bị Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh An Giang xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Lam dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, từ ngày 14/5/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Bùi Thị Kim H, sinh năm 1953; nơi cư trú: Khóm LTA, phường LT, thị xã TC, tỉnh A, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người có quyền L và nghĩa vụ liên quan đến vụ án - Anh Nguyễn Minh L, sinh năm 1969; nơi cư trú: khóm LTD, phường LT, thị xã TC, tỉnh A, vắng mặt.

- Chị Phan Thị Mỹ L, sinh năm 1980; nơi cư trú: khóm LTB, phường LH, thị xã TC, tỉnh A, vắng mặt.

- Chị Phan Thị Mỹ H, sinh năm 1972; nơi cư trú: khóm LTB, phường LT, thị xã TC, tỉnh A, vắng mặt.

- Chị Phan Thị Mỹ T, sinh năm 1978; nơi cư trú: Số 60/22, đường số 29, phường 12, quận GV, thành phố HCM, vắng mặt.

Người làm chứng:

- Ông Trương Vĩnh L; vắng mặt;

- Chị Lâm Thị T; vắng mặt;

- Trương Vĩnh Ph; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 11/3/2019, Phan Văn Công D đi bộ từ nhà của D đến nhà bà Bùi Thị Kim H (mẹ ruột của D) thuộc khóm LT A, phường LT, thị xã TC để xin tiền bà H tiêu xài. Khi đến nhà bà H, thấy cửa nhà đã khóa, nên D nảy sinh ý định vào nhà bà H lấy trộm tài sản đem bán lấy tiền tiêu xài, D liền đi về nhà thuộc khóm LTC, phường LH, thị xã TC lấy một cây búa, rồi đi đến nhà bà H, do nhà của bà H có H lớp cửa, bên ngoài cửa nhôm, bên trong cửa kính, cửa nhôm có khóa ổ khóa bên ngoài, D dùng búa đập gãy khoen cửa nhôm, ổ khóa cửa rơi xuống đất, D mở cửa nhôm ra, phát hiện cửa kính không khóa, D mở cửa kính đi vào nhà. Khi vào bên trong, D quan sát thấy tại phòng khách có một tivi màn hình phẳng hiệu Sony, loại 40 inch đang treo trên vách tường, D liền tháo các dây điện rồi đem tivi đi ra bên ngoài. Trong lúc D lấy trộm tivi, bà H đang ở trong phòng ngủ, nhưng do sợ D nên bà không dám truy hô lên, bà H gọi điện cho chị Phan Thị Mỹ L (con ruột bà H), biết việc D vào nhà lấy trộm tivi.

Sau khi D lấy trộm được tivi, D mang tivi vừa lấy trộm được đến cửa hàng của anh Nguyễn Minh L thuộc khóm LTD, phường LT, thị xã TC để cầm cho anh L với giá 3.000.000 đồng, khi cầm tivi cho anh L, D nói tivi của D, do cần tiền nên đem cầm, nghĩ D nói thật nên anh L nhận cầm. Khi nhận tiền xong, D để tivi lại rồi bỏ đi. Đến sáng ngày 12/3/2019, D đến nhà anh L hỏi mượn thêm 200.000 đồng, anh L cho D mượn, chiều cùng ngày D tiếp tục đến nhà anh L nói bán tivi trên cho anh L với giá 4.000.000 đồng, do nghĩ tivi của D nên anh L đã đồng ý mua. Số tiền bán tivi có được, D dùng vào việc đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết.

- Vật chứng thu giữ:

 + 01 (một) tivi hiệu Sony, màn hình phẳng, màu đen, loại 40 inch (đã qua sử dụng), (bà H đã nhận lại);

+ 01 (một) cây búa (loại búa đóng đinh), cán búa bằng gỗ tròn, dài 24,6 cm; lưỡi búa bằng kim loại màu đen, lưỡi búa dẹp, chiều rộng lưỡi búa 2,6 cm, chiều dài lưỡi búa 10,5 cm (đã qua sử dụng);

+ 01 (một) khoen khóa cửa có 02 ốc kim loại, kích thước 4,4 cm x 05 cm;

+ 01 (một) ổ khóa, bằng kim loại màu trắng, có chữ Minny, kích thước 05 cm x 1,3 cm; cao 08 cm, phần thân khóa bị vỡ 01 phần, mãnh vỡ có kích thước 02 cm x 3,2 cm.

Kết luận định giá tài sản số 10/KL-TTHS ngày 28/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Tân Châu: 01 (một) tivi hiệu Sony màn hình phẳng, màu đen, loại 40 inch, giá trị còn lại, trị giá 4.200.000 đồng.

Ngày 06/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Phan Văn Công D và ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Cáo trạng số 31/CT-VKSTC ngày 02 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu đã truy tố bị cáo Phan Văn Công D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thị xã Tân Châu, bị cáo kH nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng.

Bị hại bà Bùi Thị Kim H khai, khoảng 11 giờ 00 ngày 11/3/2019, bà H đang ở nhà tại khóm LTA, phường LT, thị xã TC, tỉnh A nằm ngủ trong phòng, nghe tiếng cửa kính kêu kẹt kẹt nên bà H vén màn vải thì thấy D dùng búa đập vào móc khoen khóa và mở cửa đi vào nhà. D đi vào bếp, tháo rút dây điện tivi ra khỏi ổ điện và lấy trộm tivi đặt ở phòng khách. Sau đó, D kéo màn vải, khép cửa kính và kéo cửa sắt bên ngoài lại và lấy tivi bỏ đi.

Các người có quyền L, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Minh L khai, Phan Văn Công D có đến cơ sở sửa chữa, mua bán đồ điện tử của gia đình để cầm 01 chiếc tivi màn hình phẳng hiệu Sony 40 inch giá 3.000.000 (ba triệu) đồng nhưng ông L không cầm đồ thì D nói cho D mượn đỡ 3.000.000 (ba triệu) đồng, ông L kiểm tra tivi còn hoạt động tốt nên đồng ý cho D mượn 3.000.000 (ba triệu) đồng và D phải để lại tivi. Đến sáng ngày 12/3/2019, D đi bộ lại tiệm ông L nói cho D mượn thêm 200.000 (H trăm nghìn) đồng để làm công chuyện và ông L đồng ý cho D mượn. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/3/2019 D tiếp tục đi đến gặp ông L và kêu bán luôn chiếc tivi với giá 4.000.000 (bốn triệu) đồng, ông L đồng ý mua và đưa thêm 800.000 (tám trăm nghìn) đồng. Ông L yêu cầu D trả lại số tiền 4.000.000 đồng.

Chị Phan Thị Mỹ L khai, nhà bà Kim H (mẹ ruột chị L) đang ở do chị L đứng tên chủ sở hữu. Vào khoảng 11 giờ ngày 11/3/2019, khi đang ở tại shop kinh doanh quần áo, chị L nhận được điện thoại của bà Kim H cho biết D đến 3 nhà đập ổ khóa vào nhà lấy tivi mang đi. Bà L chạy xe xuống, gặp D đang ôm tivi màn hình phẳng Sony 40 inch đi từ trong nhà bước ra nhưng D không thấy L vì L đứng cách xa D khoảng 50 mét đến 70 mét.

Chị Phan Thị Mỹ H khai, khoảng 11 giờ ngày 11/3/2019, chị H đang ở nhà thì nhận được điện thoại của em ruột tên L kêu chị H ra nhà mẹ ruột (bà Kim H) tại khóm LTA, phường LT, thị xã TC, tỉnh A vì D đập cửa vào nhà lấy tivi. Sau đó, chị H và chị L đến Công an phường Long Thạnh trình báo về hành vi lấy trộm tivi của D.

Chị Phan Thị Mỹ T khai, ngày 11/3/2019 khi chị Th ở thành phố HCM thì được người nhà cho hay D đập cửa vào nhà ở khóm LTA, phường LT, thị xã TC, tỉnh A lấy 01 (một) cái tivi màn hình phẳng.

Chị Th, chị L và chị H đồng khai, các chị cùng góp tiền mua tivi hiệu Sony, màn hình phẳng, màu đen, loại 40 inch cho bà Kim H sử dụng cách đây khoảng 02 (hai) năm với giá 12.000.000 (mười hai triệu) đồng, mỗi người góp 4.000.000 (bốn triệu) đồng và không có yêu cầu đối với tài sản lấy trộm vì đã cho bà Kim H.

Các người làm chứng:

Ông Trương Vĩnh L khai, khoảng 09 giờ đến 10 giờ ngày 11/3/2019, D đi bộ đến nhà bà Kim H (mẹ ruột D), gặp ông Lễ, D hỏi ông Lễ có gặp bà Kim H không. Sau đó, D bỏ đi rồi quay lại mượn ông L 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, nhưng ông L nói không có tiền nên D bỏ đi. Khoảng 01 (một) tiếng đồng hồ sau thì ông L nghe mọi người nói D đập cửa vào nhà bà Kim H rồi lấy tivi màn hình phẳng mang ra khỏi nhà.

Chị Lâm Thị T khai, khoảng 15 giờ ngày 11/3/2019, chị Phan Thị Mỹ L có gọi điện cho chị T hay là D phá cửa vào nhà mẹ (bà Kim H) lấy tivi.

Anh Trương Vĩnh Ph khai, khoảng 10 giờ sáng ngày 11/3/2019 khi anh Phúc đang ở nhà trọ PL, D hỏi mượn tôi 200.000 (hai trăm nghìn) đồng nhưng anh Ph nói không có, D bỏ đi đâu anh Phúc không rõ. Đến khoảng 30 phút sau, anh Ph nghe có tiếng động đập cửa tại nhà bà Kim H. Anh Phúc nhìn qua nhà thì thấy D cầm 01 cây búa (loại búa nhỏ) đập vào khoen cửa sắt. Sau đó, D đi vào trong nhà khoảng 30 phút thì D ôm 01 tivi màn hình phẳng ra để trên ghế đá trước cửa nhà.

Tại phiên tòa, bị cáo D khai nhận toàn bộ hành vi lấy trộm tài sản của bà Kim H theo nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm luận tội: Lời khai nhận của bị cáo Phan Văn Công D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, các người có quyền L và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng trong quá trình điều tra cùng các vật chứng được thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo D lén lút chiếm đoạt tivi của bà Kim H trị giá 4.200.000 (bốn triệu hai trăm nghìn) đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu truy tố đối với bị cáo D là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; giữ nguyên nội dung cáo trạng truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo D đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, bị cáo có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

Về nhân thân, ngày 18/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Phú Tân khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với D và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng D bỏ trốn.

Cần có mức hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo với bên ngoài xã hội trong thời gian nhất định để răn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử có xem xét khi lượng hình.

Về hình phạt Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phan Văn Công D, từ 09 (chín) tháng tù đến 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) tivi hiệu Sony, màn hình phẳng, màu đen, loại 40 inch (đã qua sử dụng), bà Kim H đã nhận lại tài sản nên không đề cập đến.

+ 01 (một) cây búa (loại búa đóng đinh), cán búa bằng gỗ tròn, dài 24,6 cm; lưỡi búa bằng kim loại màu đen, lưỡi búa dẹp, chiều rộng lưỡi búa 2,6 cm, chiều dài lưỡi búa 10,5 cm (đã qua sử dụng) của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ.

+ 01 (một) khoen khóa cửa có 02 ốc kim loại, kích thước 4,4 cm x 05 cm và 01 (một) ổ khóa, bằng kim loại màu trắng, có chữ Minny, kích thước 05 cm x 1,3 cm; cao 08 cm, phần thân khóa bị vỡ 01 phần, mãnh vỡ có kích thước 02 cm x 3,2 cm của bị hại và bị hại không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu, tiêu hủy.

Về Trách nhiệm dân sự:

Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường, nên không đề cập. Anh Nguyễn Minh L yêu cầu bị cáo D trả lại số tiền 4.000.000 (bốn triệu)

đồng mà anh L đã trả cho D khi mua tivi, buộc bị cáo D có trách nhiệm trả cho anh L số tiền 4.000.000 đồng.

Trong phần tranh luận, bị cáo cho rằng tài sản bị cáo lấy trộm của bà H (mẹ ruột) là nhất thời phạm tội. Không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, đồng ý theo Quyết định truy tố và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến khác.

Bị cáo D nói lời sau cùng, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị cáo Phan Văn Công D bị Cơ quan điều tra - Công an thị xã Tân Châu khởi tố về hành vi “Trộm cắp tài sản” xảy ra tại khu vực phường LT, thị xã TC, tỉnh A nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TC, tỉnh A.

[2] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại nên về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[3] Sự vắng mặt của đương sự: Bị hại bà Bùi Thị Kim H có đơn xin xét xử vắng mặt; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Minh L, chị Phan Thị Mỹ L, chị Phan Thị Mỹ H, chị Phan Thị Mỹ T; Người làm chứng ông Trương Vĩnh L, chị Lâm Thị T, anh Trương Vĩnh Ph đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, đã có lời hai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử.

- Về nội dung:

[1] Hành vi phạm tội:

Bị cáo Phan Văn Công D khai nhận, khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/3/2019, bị cáo đến nhà mẹ ruột là bà Bùi Thị Kim H tại khóm LTA, phường LT, thị xã TC, tỉnh A để xin tiền tiêu xài nhưng không gặp bà Kim H. Bị cáo hỏi anh Trương Vĩnh L (nhà trọ PL đối diện nhà bà Kim H) mượn 200.000 (hai trăm nghìn) đồng nhưng anh L không cho mượn. Bị cáo quan sát thấy nhà bà Kim H khóa chốt cửa bên ngoài nên bị cáo trở về nhà lấy cây búa (loại búa đóng đinh) đi đến nhà bà Kim H đập ổ khóa và khoen cửa vào nhà, kiếm tài sản bán lấy tiền tiêu xài. Khi vào nhà bà Kim H, bị cáo quan sát thấy tại phòng khách có một tivi màn hình phẳng hiệu Sony, loại 40 inch đang treo trên vách tường, bị cáo gỡ các dây điện, rồi lấy tivi mang ra bên ngoài. Sau khi, bị cáo D lấy trộm được tivi, bị 6 cáo mang tivi vừa lấy trộm được đến cửa hàng của anh Nguyễn Minh L để cầm cho anh L với giá 3.000.000 đồng, khi cầm tivi cho anh L, bị cáo nói tivi của bị cáo, do cần tiền nên đem cầm, tin bị cáo nói thật nên anh L nhận cầm, khi nhận tiền xong, bị cáo để tivi lại rồi bỏ đi. Đến sáng ngày 12/3/2019, bị cáo đến nhà anh L hỏi mượn thêm 200.000 đồng, anh L đồng ý cho bị cáo mượn, chiều cùng ngày bị cáo tiếp tục đến nhà anh L, bán tivi trên cho anh L với giá 4.000.000 đồng, nghĩ tivi của bị cáo nên anh L đã đồng ý mua với giá 4.000.000 đồng. Số tiền bán tivi có được, bị cáo dùng vào việc trả nợ và tiêu xài cá nhân hết. Tài sản bị cáo lấy trộm trị giá 4.200.000 (bốn triệu hai trăm nghìn) đồng (theo kết luận định giá tài sản số 10/KL-TTHS ngày 28/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã TC, tỉnh A).

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại; lời khai các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; lời khai các người làm chứng; biên bản tiếp nhận tin báo về tội phạm ngày 11/3/2019 và các chứng cứ được thể hiện trong hồ sơ vụ án.

Đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan Văn Công D có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bà Bùi Thị Kim H, trị giá 4.200.000 (bốn triệu H trăm nghìn) đồng là xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác.

Bị cáo D có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 31/CT- VKSTC ngày 02/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Châu truy tố hành vi phạm tội của bị cáo Phan Văn Công D là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

An ninh trật tự là vấn đề đặc biệt và cần quan tâm, mọi người cùng nhau giữ gìn trật tự chung ở địa phương, bảo vệ tài sản của nhau.

Tài sản của bà Bùi Thị Kim H thuộc quyền sở hữu của bà Kim H, bất kỳ ai xâm hại sẽ bị xử lý theo pháp luật.

Bị cáo Phan Văn Công D là người cha có sức khỏe, có khả năng lao động. Lẽ ra, bị cáo phải tích cực lao động tạo thu nhập tiêu xài cá nhân và phụ giúp gia đình và là tấm gương tốt để các con noi theo. Ngược lại, bị cáo lại lười biếng lao động, không làm mà muốn có tiền tiêu xài, L dụng sự thương yêu của người thân trong gia đình mà chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật.

Điều đáng nói, bị cáo D đã có hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” ngày 18/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Phú Tân khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với D và ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng D bỏ trốn. Trong thời gian bỏ trốn, ngày 11/3/2019, D lấy trộm tài sản của bà H (mẹ ruột D).

[2] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo D có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ theo quy định theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Hình phạt:

- Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo D là nguy hiểm cho xã hội. Xét, có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Xét, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) tivi hiệu Sony, màn hình phẳng, màu đen, loại 40 inch (đã qua sử dụng), bà Kim H đã nhận lại tài sản. Đồng thời, chị Th, chị L và chị H cho rằng, các chị cùng góp tiền mua tivi hiệu Sony, màn hình phẳng, màu đen, loại 40 inch cho bà Kim H sử dụng cách đây khoảng 02 (H) năm với giá 12.000.000 (mười H triệu) đồng, mỗi người góp số tiền 4.000.000 (bốn triệu) đồng và không có yêu cầu đối với tài sản lấy trộm vì đã cho bà Kim H nên Tòa án không xem xét giải quyết.

+ 01 (một) cây búa (loại búa đóng đinh), cán búa bằng gỗ tròn, dài 24,6 cm; lưỡi búa bằng kim loại màu đen, lưỡi búa dẹp, chiều rộng lưỡi búa 2,6 cm, chiều dài lưỡi búa 10,5 cm (đã qua sử dụng) của bị cáo dùng vào việc phạm tội. Xét, tịch thu sung quỹ.

+ 01 (một) khoen khóa cửa có 02 ốc kim loại, kích thước 4,4 cm x 05 cm và 01 (một) ổ khóa, bằng kim loại màu trắng, có chữ Minny, kích thước 05 cm x 1,3 cm; cao 08 cm, phần thân khóa bị vỡ 01 phần, mãnh vỡ có kích thước 02 cm x 3,2 cm của bị hại và bị hại không có yêu cầu nhận lại. Xét, tịch thu, tiêu hủy.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Điều tra - Công an thị xã Tân Châu với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu ngày 07/8/2019).

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại bà Bùi Thị Kim H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường, nên không đề cập.

Biên bản lời khai ngày 21/3/2019, ông Nguyễn Minh L có yêu cầu bị cáo D hoàn trả 4.000.000 đồng. Xét, Hợp đồng mua bán tivi giữa ông Nguyễn Minh L với bị cáo D vi phạm điều cấm của pháp luật nên hợp đồng này vô hiệu. Buộc bị cáo D phải có trách nhiệm trả lại 4.000.000 (bốn triệu) đồng cho ông L theo quy định tại Điều 117, Điều 122, Điều 123 và khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[6] Các vấn đề khác: Đối với ông Nguyễn Minh L có hành vi mua tivi do bị cáo D lấy trộm. Tuy nhiên, khi mua ông L không biết tivi do bị cáo D phạm tội mà có, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Tân Châu, không xử lý ông L về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Minh L vắng mặt cũng cần nhắc nhở ông L khi mua tài sản phải biết rõ nguồn gốc để kịp thời tố giác tội phạm.

[7] Về án phí: Bị cáo Phan Văn Công D phải chịu 200.000 (H trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng, bị cáo D phải chịu 500.000 đồng án phí sơ thẩm.

Theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn Công D phạm tội "Trộm cắp tài sản";

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Phan Văn Công D 09 (chín) tháng tù;

Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo D được tính kể từ ngày 14/5/2019 (Mười bốn, tháng năm, năm H nghìn không trăm mười chín).

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; Điềm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Tịch thu, sung quỹ: 01 (một) cây búa (loại búa đóng đinh), cán búa bằng gỗ tròn, dài 24,6 cm; lưỡi búa bằng kim loại màu đen, lưỡi búa dẹp, chiều rộng lưỡi búa 2,6 cm, chiều dài lưỡi búa 10,5 cm (đã qua sử dụng).

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) khoen khóa cửa có 02 ốc kim loại, kích thước 4,4 cm x 05 cm;

- 01 (một) ổ khóa, bằng kim loại màu trắng, có chữ Minny, kích thước 05 cm x 1,3 cm; cao 08 cm, phần thân khóa bị vỡ 01 phần, mãnh vỡ có kích thước 02 cm x 3,2 cm.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Điều tra - Công an thị xã Tân Châu với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu ngày 07/8/2019).

Căn cứ Điều 117, Điều 122, Điều 123 và khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Tuyên bố hợp đồng mua bán tài sản giữa ông Nguyễn Minh L và bị cáo D vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.

Buộc bị cáo Phan Văn Công D có trách nhiệm hoàn trả 4.000.000 (bốn triệu) đồng cho ông Nguyễn Minh L.

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phan Văn Công D phải chịu 200.000 (H trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng, bị cáo D phải chịu 500.000 đồng án phí sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bị hại, các người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về