Bản án 29/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N-TỈNH B

BẢN ÁN 29/2018/HS-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn N (tên gọi khác: không) sinh ngày 02 tháng 01 năm 1998 tại xã Đ, huyện L, tỉnh Đ; nơi cư trú: Buôn M, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ; tạm trú tại tổ nhân dân P, thị trấn Y, huyện N, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn) lớp 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Lục Thị B; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: chị Triệu Thị Cẩm V, sinh năm 1994, "Vắng mặt".

Trú tại: thôn C, xã C, huyện N, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lê Huy Nh, sinh năm 1988. trú tại tổ nhân dân P, thị trấn Y, huyện N, tỉnh B, "có mặt".

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1963, "Vắng mặt";

+ Hà Hải Y, sinh năm 1977, "Vắng mặt".

Địa chỉ: cùng trú tại: thôn C, xã C, huyện N, tỉnh B.

+ Hoàng Văn K, sinh năm 1988; trú tại tổ nhân dân B, thị trấn Y, huyện N, tỉnh B, "Vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 19/8/2018, Nguyễn Văn N cùng anh Lê Huy Nh, trú tại tổ nhân dân P, thị trấn Y, huyện N, tỉnh B (có quan hệ gia đình) điều khiển xe mô tô BKS 99H2-XXXX của anh Nh đi từ nhà anh Nh đến nhà chị Lê Thị HT ở thôn N, xã C, huyện N, tỉnh B để hộ gia đình chị HT xẻ gỗ. Khoảng 15 giờ cùng ngày khi Nh và anh T (chồng chị HT) đang xẻ gỗ, thì N xin của anh Nh 200.000đ để đi mua thuốc lá và uống nước. Sau đó, N mượn xe mô tô BKS 99H2-6162 của anh Nh và một mình điều khiển xe đến quán chị Nguyễn Thị H ở thôn C, xã C để mua 01 chai Coca loại to và 02 lon nước Bò húc, 01 bao thuốc lá Thăng long. Mua xong N điều khiển xe mô tô quay lại nhà chị HT, khi đi đến quán cà phê - karaoke H của bà Hà Hải Y ở thôn C, xã C thì N xuống xe, dựng xe mô tô trước cổng quán rồi vào trong quán với mục đích để mua cà phê. Khi vào trong quán N gọi chủ quán 02 lần đến 03 lần nhưng không thấy ai thưa. Lúc này N thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 vỏ màu ghi xám (của chị Triệu Thị Cẩm V) đang sạc điện đặt trên bàn trong quán, lợi dụng lúc không có ai nên N đã rút sạc điện thoại ra và cầm lấy chiếc điện thoại cho vào túi áo bò đang mặc rồi đi ra điều khiển mô tô về nhà chị HT. Trên đường về nhà chị HT, N tắt nguồn điện thoại và tiếp tục cất vào túi áo. Khi đến nhà chị HT, N cất xe mô tô rồi đi xuống suối cách nhà chị HT 150m, N dùng que tre để tháo sim ra và vứt chiếc sim của điện thoại xuống suối, sau đó quay về nhà chị HT. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì N cùng anh Nh trở về nhà của anh Nh. Khi về đến nhà thì N bảo với anh Nh "Lúc chiều đi mua thuốc lá em có nhặt được 01 chiếc điện thoại rơi ở đường" và N lấy chiếc điện thoại ra cho Nh xem, thì Nh có bảo "có nhặt được thật không" N nói là nhặt được thật, sau đó N cất chiếc điện thoại vào ba lô của N. Khoảng 06 giờ ngày 22/8/2018 N đưa chiếc điện thoại cho Nh bảo đi mở khóa. Nh cầm chiếc điện thoại do N đưa cho ra cửa hàng sửa chữa điện thoại Hoàng K ở tổ nhân dân B, thị trấn Y, huyện N để mở khóa. Đến khoảng 07 giờ ngày 23/8/2018 Nh cùng với N ra cửa hàng điện thoại Hoàng K để lấy điện thoại, khi đến cửa hàng điện thoại Hoàng K, N đứng ở ngoài, anh Nh đi vào trong cửa hàng nhận chiếc điện thoại Iphone 6, ra đến gần cửa cửa hàng thì bị Cơ quan Công an huyện N phát hiện và anh Nh đã giao nộp cho Cơ quan Công an huyện N.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KLĐGTS ngày 24/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N kết luận: chiếc điện thoại của chị Triệu Thị Cẩm V tại thời điểm bị xâm hại có giá trị 3.400.000,đ. Riêng sim điện thoại có số thuê bao 0918623826 sau khi bị mất điện thoại, chị V không có đề nghị xem xét bồi thường thiệt hại.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Nguyễn Văn N đều thừa nhận hành vi phạm tội, mục đích của bản thân lấy trộm chiếc điện thoại ngày 19/8/2018 là lấy về để bản thân sử dụng. Lời khai nhận của N phù hợp với các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng và các đồ vật, tài liệu tạm giữ:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS 99H2-XXXX, số khung VLKPCG012LK*096xxx, số máy VLKZS150FMG-2*000096xxx.

- 01 chiếc mũ bảo hiểm xe mô tô nhãn hiệu HJC HELMETS. Sơn màu vàng, kính chắn gió màu trắng trong suốt, trên mũ có ghi chữ SAMSUNG màu xanh;

- 01 chiếc áo bò dài tay;

- 01 chiếc quần soóc màu vàng;

- 01 đôi giầy nhung vải màu đen;

- 01 chiếc kính đeo mắt;

Hiện nay đang được bảo quản theo quy định của Pháp luật.

Đối với chiếc sim điện thoại sau khi Nghĩa trộm cắp chiếc điện thoại của chị V, N đã vứt xuống suối, Cơ quan Công an Huyện đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Chị V không yêu cầu N bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS-NR ngày 11/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh B đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện N để xét xử Nguyễn Văn N về: "Tội trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại biên bản hỏi cung bị can và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố.

Tại biên bản ghi lời khai và tại đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa, người bị hại chị Triệu Thị Cẩm V trình bày: Không yêu cầu Nguyễn Văn N phải bồi thường; chỉ yêu cầu lấy lại chiếc điện thoại Iphone 6, ngoài ra không còn có yêu cầu gì khác.

Tại biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa, người có quyền lợi liên quan: anh Lê Huy Nh trình bày: tại thời điểm N lấy trộm chiếc điện thoại Iphone 6 thì anh đang cùng với anh T xẻ gỗ và đến khi về đến nhà tại thị trấn Y, khi Ng cho anh xem và nhờ anh đem chiếc điện thoại Iphone 6 đi mở khóa anh đều không hay biết đó là tài sản do trộm cắp mà có. Còn chiếc xe mô tô của anh cho N mượn để sử dụng vào mục đích đi mua thuốc và nước chứ không phải cho N mượn để sử dụng vào mục đích phạm tội, nên anh đề nghị xin được lấy lại chiếc xe cùng chiếc mũ bảo hiểm.

Tại biên bản ghi lời khai, người làm chứng, chị Nguyễn Thị H trình bày: Chiều ngày 19/8/2018 chị có được bán 01 chai Coca loại to và 02 lon nước Bò húc, 01 bao thuốc lá Thăng Long cho một thanh niên, sau này được biết là N. Khi N mua hàng xong thì chị thấy N đi và dừng xe trước quán của chị Hà Hải Y, còn sau đó như thế nào thì chị không biết.

Tại biên bản ghi lời khai, người làm chứng chị Hà Hải Y trình bày: Triệu Thị Cẩm V là con dâu của chị, thời điểm V bị mất chiếc điện thoại thì chị không có mặt ở quán. Ngoài việc V mất chiếc điện thoại di động thì chị không bị mất tài sản gì khác.

Tại biên bản ghi lời khai, người làm chứng, anh Hoàng Văn K trình bày:

Sáng ngày 22/8/2018 anh Nh có mang đến nhờ anh mở khóa chiếc điện thoại Iphone 6. Anh cũng không hỏi nguồn gốc chiếc điện thoại chỉ hẹn anh Nh hôm sau đến lấy. Khi anh Nh đến lấy chiếc thoại thì bị Công an huyện N phát hiện. Ngoài ra anh không có ý kiến gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm "Tội trộm cắp tài sản". Áp dụng khoản 1 Điều 173 điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 8 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là từ 12 tháng đến 16 tháng. Thời gian chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện N, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện N, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa chị Triệu Thị Cẩm V là bị hại, người làm chứng: chị Nguyễn Thị H, Hà Hải Y vắng mặt. Những người tham gia tố tụng có mặt và Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng tiếp tục xét xử vắng mặt họ. Hội đồng xét xử xét thấy: Người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt. Lời khai của những người làm chứng đã có trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người làm chứng tại phiên tòa là hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 19/8/2018, Nguyễn Văn N cùng anh Lê Huy Nh đến nhà chị Lê Thị HT ở thôn N, xã C, huyện N, tỉnh B để hộ gia đình chị HT xẻ gỗ. Khoảng 15 giờ cùng ngày, N mượn xe mô tô BKS 99H2-XXXX của anh Nh rồi một mình đi mua thuốc lá và nước uống. Sau khi mua xong N điều khiển xe mô tô quay lại nhà chị HT, khi đi đến quán cà phê - karaoke H của chị Hà Hải Y ở thôn C, xã C thì N dừng xe, đi vào trong quán với mục đích để mua cà phê. Khi vào trong quán lợi dụng không có ai ở quán N đã lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 của chị Triệu Thị Cẩm V đang sạc điện đặt trên bàn trong quán, rồi đi ra điều khiển mô tô về nhà chị HT. Sau khi lấy chiếc điện thoại thì N đã tháo sim và vứt xuống suối. Khoảng 06 giờ ngày 22/8/2018 N đưa chiếc điện thoại cho Nh bảo đi mở khóa. Đến khoảng 07 giờ ngày 23/8/2018 Nh cùng với N ra cửa hàng điện thoại Hoàng K để lấy lại điện thoại, khi đến cửa hàng điện thoại Hoàng K, N đứng ở ngoài, anh Nh đi vào trong cửa hàng nhận chiếc điện thoại Iphone 6 thì bị Cơ quan Công an huyện N phát hiện và anh Nh đã giao nộp chiếc điện thoại Iphone 6 cho Cơ quan Công an huyện N.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KLĐGTS ngày 24/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện N kết luận: Chiếc điện thoại của chị Triệu Thị Cẩm V tại thời điểm bị xâm hại có giá trị 3.400.000,đ.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn N đã phạm vào "Tội trộm cắp tài sản", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, điều luật có nội dung: "1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm".

Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là ít nghiêm trọng. Khi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý; tuy nhiên, do không làm chủ được bản thân nên hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm vào quan hệ sở hữu tài sản của người khác được Luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân: Bị cáo N có nhân thân tốt; tiền án, tiền sự: không.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tổng hợp các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần áp dụng Điều 65 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cho bị cáo được hưởng án treo, để cải tạo, giáo dục bị cáo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của Chính quyền địa phương và gia đình mà vẫn đảm bảo mục đích giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh: gia đình bị cáo trước đây sinh sống tại huyện B, tỉnh B và hiện nay đã chuyển khẩu về xã Đ, huyện L, tỉnh Đ sinh sống; bị cáo là người dân tộc, chưa có nghề nghiệp ổn định nên xét thấy cần miễn áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là có cơ sở.

[3] Đánh giá về quan điểm truy tố, đề nghị của Kiểm sát viên: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng là có căn cứ. Mức hình phạt của Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo 06 tháng đến 08 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 16 tháng; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Số điện thoại theo sim của chị Triệu Thị Cẩm V đã được nhà mạng VinaPhone khôi phục lại. Nay chị chỉ yêu cầu lấy lại chiếc điện thoại Iphone 6 và không có yêu cầu gì đối với bị cáo. Nên trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại cho chị V không được đặt ra để giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 thuộc sở hữu của người bị hại nên cần trả lại cho chủ sở hữu

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS 99H2-XXXX; 01 chiếc mũ bảo hiểm xe mô tô nhãn hiệu HJC HELMETS không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp;

- 01 chiếc áo bò dài tay là công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc quần soóc màu vàng, 01 đôi giầy nhung vải màu đen, 01 chiếc kính đeo mắt không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo.

Số lượng, tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện với Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 25/10/2018.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[1] Về Tội phạm: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm "Tội trộm cắp tài sản".

[2] Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng, thời hạn chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn Na cho UBND thị trấn Y, huyện N, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của BLTTHS năm 2015.

- Trả lại cho chị Triệu Thị Cẩm V 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6.

- Trả lại cho anh Lê Huy Nh 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave, BKS 99H2-XXXX; 01 chiếc mũ bảo hiểm xe mô tô nhãn hiệu HJC HELMETS.

- Trả lại cho Nguyễn Văn N 01 (một) chiếc quần soóc màu vàng, 01 (một) đôi giầy nhung vải màu đen, 01 (một) chiếc kính đeo mắt.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc áo bò dài tay.

Số lượng, tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện với Chi cục thi hành án dân sự huyện N lập ngày 25/10/2018.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc Nguyễn Văn N phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, anh Lê Huy Nh, vắng mặt chị Triệu Thị Cẩm V. Bị cáo và anh Lê Huy Nh có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Triệu Thị Cẩm V vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại Trụ sở UBND xã nơi họ cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về