Bản án 29/2018/HSST ngày 20/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 29/2018/HSST NGÀY 20/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/6/2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Nam Sách xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 26/2018/HSST ngày 17/5/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2018/QĐXXST-HS ngày 05/6/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Viết C - sinh năm 1994;

ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn H, xã T, huyện P, tỉnh Hưng Yên;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch:Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Viết H và bà Nguyễn Thị X; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình;

Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 31 ngày 25/9/2014 của TAND huyện P, tỉnh Hưng Yên xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản ( chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/3/2015). Bản án số 42 ngày 06/12/2016 của TAND huyện P, tỉnh Hưng Yên xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2018).

Nhân thân: Năm 2009 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 16/4/2018 đến ngày 18/4/2018 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Kim Chi, Công an tỉnh Hải Dương;

Có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn L, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương. Có mặt.

Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1998; Địa chỉ: Thôn N, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Viết C và anh Trịnh Đình H cùng là bạn tù khi cải tạo tại trại giam H, thị xã C, tỉnh Hải Dương. Sáng ngày 16/4/2018, C đang chơi ở nhà bạn gái là chị Nguyễn Thị L ở Thôn N, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội thì H gọi điện thoại cho C rủ về huyện N, Hải Dương, C đồng ý. C cùng với chị L đón xe bus từ Hà Nội về Hưng Yên. Khi về đến thôn T, xã P, tỉnh Hưng Yên, C và chị L cùng đến nhà người phụ nữ tên Nguyễn Thị T. Tại đây, C bảo chị L đứng ngoài chờ còn C vào trong gặp và mua của T 500.000đồng ma túy đá được 01 gói nilon kích thước 2 cm x 2,5 cm. C giấu gói ma túy mua được vào trong ví, cất trong túi quần phía sau bên phải sau đó ra gặp chị L rồi cùng chị L đón xe ô tô khách về Hải Dương. Trên đường đi, anh H gọi điện chỉ dẫn đường cho C đến nơi hẹn. C và chị L đến cây xăng M ở thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương thì gặp H. H điều khiển xe mô tô chở chị L và C đến quán của anh Nguyễn Tuấn A ở thôn L, xã A, huyện N, Hải Dương uống nước. Một lúc sau H nói đi có việc, C và chị L ở lại chờ. Trong khi ngồi chờ, C đi ra quán tạp hóa gần đó mua bật lửa, khi quay lại quán nước thì bị tổ công tác tuần tra của Công an huyện Nam Sách kiểm tra phát hiện trong ví của C cất giấu 01 gói nilon màu trắng, kích thước 2cm x 2,5 cm. C trình bày gói nilon trên là ma túy đá mục đích cất giấu để sử dụng.

Tại kết luận giám định số 181/KLGĐ ngày 17/4/2018 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2390 gam, là loại Methamphetamin.

Về vật chứng: 0,1210 gam Methamphetamin và vỏ bao mẫu vật hoàn lại sau giám định được niêm phong trong bì thư số 181/2018/PC54 của phòng kỹ thuật hình sự công an thành phố Hải Phòng; 01 ví nam màu đen, 01 điện thoại Nokia 105 bên trong lắp sim, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Viết C được lưu giữ tại kho vật chứng – Công an huyện Nam Sách chờ xử lý theo quy định Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 17/5/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Viết C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; Tuyên bố Nguyễn Viết C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Xử phạt: C từ 5 năm 3 tháng đến 5 năm 6 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự ; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định và 01 ví da nam màu đen; tịch thu xung quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia; trả lại cho bị cáo 01 thẻ căn cước công dân. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra – Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và tang vật chứng, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 30 phút ngày 16/4/2018, tại thôn L, xã A, huyện N, Hải Dương, Nguyễn Viết C có hành vi cất giấu trái phép 0,2390 gam ma túy Methamphetamin mục đích sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc cất giấu trái phép chất ma túy có thành phần là Methamphetamine là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và xã hội nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo có hai tiền án ( Bản án số 31 ngày 25/9/2014 của TAND huyện P, tỉnh Hưng Yên xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/3/2015. Bản án số 42 ngày 06/12/2016 của TAND huyện P, tỉnh Hưng Yên xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2018) đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Về nhân thân bị cáo có 02 tiền án thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nhưng do đã áp dụng là tình tiết định khung hình phạt nên không áp dụng là tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự, ngoài ra bị cáo có 01 lần bị xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, tuy nhiên bị cáo không lấy đó là những bài học để sửa đổi mà lại tiếp tục phạm tội nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Xét tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 BLHS có quy định về hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên hội đồng xét xử không phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: 0,1210 gam Methamphetamin và vỏ bao mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, 01 ví nam màu đen không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại Nokia 105 bên trong lắp sim bị cáo sử dụng liên lạc để mua ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước; đối với 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Viết C không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự

[7] Đối với chị Nguyễn Thị L là người đi cùng C nhưng không biết việc C mua và cất giấu trái phép chất ma túy nên không đặt ra xử lý. Đối với anh Trịnh Đình H theo C khai là người gọi điện thoại rủ C mua ma túy về huyện N, Hải Dương để sử dụng, anh H không thừa nhận. Hiện tại anh H đang vắng mặt tại địa phương cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách tiếp tục xác minh, nếu đủ căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp. Đối với chị Nguyễn Thị T ở thôn T, xã P, Hưng Yên theo C khai là người bán ma túy cho C hiện tại đang vắng mặt tại địa phương, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách có công văn về việc chuyển nguồn tin tội phạm đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, tỉnh Hưng Yên tiến hành điều tra, xác minh theo thẩm quyền.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phí và lệ phí, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết C 5 (Năm) năm 6 (Sáu) tháng tù, thời gian tính từ ngày tạm giữ 16/4/2018.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy: 0,1210 gam Methamphetamin và vỏ bao mẫu vật hoàn lại sau giám định được niêm phong trong bì thư số 181/2018/PC54 của Phòng PC 54 Công an thành phố Hải Phòng; 01 ví da nam màu đen.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại Nokia 105 bên trong có lắp sim;

Trả lại cho bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Viết C (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Nam Sách và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách ngày 22/5/2018)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Nguyễn Viết C phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HSST ngày 20/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về