TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 288/2020/HS-PT NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 295/2020/TLPT-HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Trần Quốc H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 231/2020/HS-ST ngày 21/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Trần Quốc H, (tên gọi khác: B), sinh ngày 15/5/1979, tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: 62 Đường X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở hiện nay: 05 Y N (nối dài), phường T1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ văn hóa: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn C, sinh năm 1957 và bà Lưu Thị Ngọc M, sinh năm 1960 (đã chết); bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Nguyên S, sinh năm 1983, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2019; Tiền án: không; Tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 13/8/2001, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục Al, tỉnh Phú Yên, thời gian 24 tháng, về hành vi Gây rối trật công cộng; Ngày 23/8/2018, bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt hành chính số tiền 3.500.000 đồng, về hành vi Hủy hoại tài sản.
Bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo:
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Nguyên S, Sinh năm 1983; nơi cư trú: 237/15 đường P, phường T1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ ngày 12 tháng 3 năm 2020, Trần Quốc H đi nhậu về nhà, thấy vợ là chị Nguyễn Thị Nguyên S, đang nói chuyện điện thoại với người khác với lời lẽ ngọt ngào, nên H nghi ngờ chị S đang nói chuyện với người tình, H bức xúc yêu cầu S giải thích, thì hai bên xảy ra xô xát cãi nhau, do ghen tuông, không kìm chế được bản thân, nên H nắm tóc chị S kéo ra cửa nhà rồi dùng chân đè chị S xuống nền nhà chửi “Tao rạch mặt mày xấu để mày sống trong đau khổ” đồng thời H lấy 01 con dao dùng để thái bì heo gần đó, cầm tay phải rạch 01 nhát vào má phải, 01 nhát vào má trái, 01 nhát vào đầu và 01 nhát vào tay trái chị S gây thương tích, thấy chị S bị chảy nhiều máu, nên H dừng lại, không rạch nữa vứt dao xuống nền nhà. Sau đó, chị S được đưa đến Bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên điều trị.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 327/TgT - TTPY, ngày 20/3/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chị Nguyễn Thị Nguyên S: Vết thương đã khâu đỉnh đầu trái, kích thước 6cm x 0,2cm; Vết thương đã khâu dọc gò má trái, kích thước 9cm x 0,2cm; Vết thương đã khâu ngang gò má trái, đến dái tai trái, kích thước 8cm x 0,2 cm; Vết thương đã khâu ngang gò má phải đến cánh mũi phải, kích thước 9cm x 0,2cm; Vết thương đã khâu mặt sau trong bàn tay trái, kích thước 3cm x 0,2cm; Vết thương đã khâu mu bàn tay trái, kích thước 2cm x 0,2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 20% (hai mươi phần trăm).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 231/2020/HS-ST ngày 21/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc H phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/8/2020, bị cáo Trần Quốc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm. Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, mong Hội đồng xét xử cho giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Quốc H 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng và đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Do vậy, đề nghị HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Trần Quốc H, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 22 giờ ngày 12 tháng 3 năm 2020, do ghen tuông vô cớ bị cáo Trần Quốc H và vợ là chị Nguyễn Thị Nguyên S đã xảy ra xô xát cãi nhau, do không kìm chế được bản thân, nên lấy 01 con dao dùng để thái bì heo rạch 01 nhát vào má phải, 01 nhát vào má trái, 01 nhát vào đầu và 01 nhát vào tay trái chị S, làm chị S bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 20 % sức khỏe. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị tương xứng với với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo gây ra. Bị cáo chỉ vì ghen tuông vô cớ đã dùng dao gây thương tích cho vợ bị cáo với tỷ lệ thương tật 20%. Mặt khác, bị cáo đã từng bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính về các hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo không lấy đó là bài học để tu dưỡng bản thân mà còn phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Trong quá trình xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án hình sự sở thẩm.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét và có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:
[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Quốc H – Giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 231/2020/HS-ST ngày 21/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Quốc H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
[2] Về án phí: Bị cáo Trần Quốc H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 288/2020/HS-PT ngày 20/11/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 288/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về