Bản án 286/2021/HSST ngày 23/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 286/2021/HSST NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 263/2021/HSST ngày 01 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 282/2021/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 9 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. MAI ANH P.

Sinh ngày: 27/3/1994; tại Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Buôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Mai Trường T, sinh năm 1964 và con bà Hoàng Thị C, sinh năm 1965. Bị cáo có vợ là Huỳnh Thị Thu T, sinh năm 1996; có 01 con sinh năm 2014.

- Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2021. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Có mặt tại phiên tòa.

2. NGUYỄN THẮNG N (Tên gọi khác: B). Sinh ngày: 23/3/2000; tại Đắk Lắk;

Nơi cư trú: Buôn E, xã H, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thắng S, sinh năm 1978 và con bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1976. Bị cáo chưa có vợ con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/4/2021. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Trần Vinh Q. Sinh năm 1985. Trú tại: Thôn X, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

Ông Trần Anh T, bà Vũ Thị Đ. Trú tại: Đường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Võ Sơn L. Sinh năm 2002. Trú tại: Buôn J, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

Bà Lữ Thị Thu U. Sinh năm 2001.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn X, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Chỗ ở hiện nay: Đường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

Bà Bùi Thị Thu T. Sinh năm 1997.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn X, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

Chỗ ở hiện nay: Đường A, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Mai Anh P và Nguyễn Thắng N là bạn bè, không có việc làm ổn định, đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy loại thuốc lắc và Khay (Ketamine). Qua mối quan hệ xã hội, P biết một người tên Đ ở thành phố Hồ Chí Minh là người bán ma túy loại Khay và thuốc lắc nên đã nảy sinh ý định mua ma túy và rủ N cùng bán để kiếm lời. Cụ thể một hộp mười ma túy Khay P mua 9.000.000 đồng, phân thành khoảng 30 chấm bán 1.100.000 đồng/chấm; thuốc lắc mua 200.000 đồng/1 viên, bán lại 200.000 - 400.000 đồng/1 viên; ma túy khay loại kim tuyến, đá đường mua từ 7.500.000 đồng - 8.000.000 đồng/1 hộp mười, phân lẻ và bán như ma túy khay. P là người trực tiếp mua ma túy và phân thành nhiều gói nhỏ, còn N là người đi giao ma túy. Khách mua ma túy sẽ liên hệ qua số điện thoại 0847.999.943 gắn trên chiếc điện thoại hiệu Iphone của P, sau đó P hoặc N sẽ hẹn địa điểm giao và đã nhiều lần bán ma túy cho nhiều đối tượng. Tiền bán được ma túy cùng chi tiêu sinh hoạt chung.

Khoảng đầu tháng 4/2021, P, N cùng ở tại địa chỉ số 49, đường A15 xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột. Ngày 07/4/2021, P liên lạc đến số 0706.521.658 của Đạt mua 02 hộp mười ma túy Khay và 40 viên thuốc lắc với giá 26.000.000 đồng thì được Đ cho thêm ½ viên thuốc lắc màu xanh lá cây và ½ viên thuốc lắc màu đỏ. Sau đó P một mình đón xe khách đến thành phố Hồ Chí Minh lấy ma túy về phân thành nhiều gói nhỏ cất giấu ở khu vực nhà vệ sinh.

Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 08/4/2021 khi P, N và Võ Sơn L; Bùi Thị Thu T và Lữ Thị Thu U đang ở địa chỉ số 49, đường A15 xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột, thì có một người nam giới tên T (không rõ lai lịch) gọi đến số điện thoại của P hỏi mua 02 chấm Khay và 04 viên thuốc lắc nhưng P bận nên N nghe điện thoại và báo giá 1à 3.200.000 đồng thì người này đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực đường 10/3 với Phạm Ngũ Lão, thành phố Buôn Ma Thuột. N lấy ma túy và rủ L cùng đi nhưng không nói Lợi biết là đi giao ma túy. Khi N vừa dắt xe mô tô BKS 47H1 – 669.66, Lợi vừa mở cổng nhà để chuẩn bị đi thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần phía sau bên phải đang mặc trên người của N 01 gói nylon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 01 gói nylon chứa 04 viên nén màu xanh (ký hiệu M1). Tiến hành kiểm tra căn nhà, phát hiện tại khu vực nhà vệ sinh 01 gói nylon bên trong có 32 viên nén màu xanh, 01 gói nylon bên trong có ½ viên nén màu xanh lá cây và ½ viên nén mảu đỏ, 16 gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M2) đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Ngoài ra còn tiến hành khám xét khẩn cấp nhà nhưng không thu giữ tài sản gì.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ:

Khi bị bắt quả tang Mai Anh P và Nguyễn Thắng N, ngoài việc thu giữ ma túy, còn tạm giữ của Nguyễn Thắng N 01 điện thoại di động hiệu Nokia kèm sim 0856.585.156, số tiền 3.000.000 đồng, chiếc xe mô tô BKS 47H1 – 669.66. Tạm giữ của Mai Anh P 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 kèm sim 0847.999.943.

Tại Cơ quan điều tra, P và N khai nhận nhiều lần bán ma túy cho các con nghiện, cụ thể:

Lần thứ nhất: Bán cho 01 người có thông tin lưu trên điện thoại là “A Tư khách chị Dung” 01 chấm ma túy khay và 01 viên ma túy thuốc lắc, thu lợi số tiền 1.300.000 đồng.

Lần thứ hai: Bán cho người tên Phong 01 chấm ma túy khay và 02 viên ma túy thuốc lắc, thu lợi số tiền 1.700.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 432/GĐMT – PC09 ngày 15 tháng 4 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận:

- Phong bì MI: Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,6399 gam.

04 viên nén màu xanh được niêm phong gửi giám định chưa tìm thấy chất ma túy thường gặp, tổng khối lượng 1,5501 gam.

- Phong bì MII: Tinh thể màu trắng đựng trong 16 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng 15,8918 gam. 32 viên nén màu xanh gửi giám định chưa tìm thấy chất ma túy thường gặp, tổng khối lượng 12,5329 gam.

½ viên nén màu đỏ gửi giám định chưa tìm thấy chất ma túy thường gặp, khối lượng 0,2275 gam.

½ viên nén màu xanh lá cây gửi giám định là ma túy loại MDMA, khối lượng 0,1392 gam.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng:

Phong bì MI.1: 1,0817 gam ma túy loại Ketamine. Phong bì MI.2: 1,1253 gam (04 viên nén màu xanh).

Phong bì MII.1: 32 viên nén màu xanh khối lượng 11,1493 gam; ½ viên nén màu đỏ khối lượng 0,1406 gam.

Phong bì MII.2: 14,0389 gam Ketamine; 0,1112 gam MDMA (½ viên nén màu xanh lá cây).

Tại Kết luận giám định số 379/C09C-Đ2 ngày 24 tháng 6 năm 2021 của Viện khoa học hình sự - Phân viện Khoa học hình sự tại Đà Nẵng kết luận:

- Chất rắn màu xanh (phần còn lại của bốn viên nén màu xanh) được niêm phong trong phong bì ký hiệu MI.2.

- Chất rắn màu xanh (phần còn lại của 32 viên nén màu xanh) đựng trong gói giấy màu trắng. Chất rắn màu đỏ (phần còn lại của ½ viên nén màu đỏ) đựng trong gói giấy màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu MII.1 được niêm phong gửi giám định đều không tìm thấy chất ma túy.

Tại bản cáo trạng số 229/CT-VKS ngày 31 tháng 7 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N như bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Mai Anh P từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thắng N từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Đề nghị tịch thu, tiêu hủy 15,1206 gam Ketamine và 0,1112 gam MDMA; 9,8568 gam viên nén màu xanh, đỏ và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật trong 02 gói niêm phong số 423/GĐMT-PC09 ngày 15/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk và số 679/C09C – Đ2 ngày 24/6/2021 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Đà Nẵng còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

+ Đề nghị tịch thu, sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm sim 0856.585.156 của Nguyễn Thắng N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim số 0847.999.943 của Mai Anh P và số tiền 3.000.000 đồng là tài sản các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và thu lợi bất chính.

+ Đối với xe mô tô BKS 47H1 – 669.66 mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác định Mai Anh P đứng tên chủ sở hữu. Tuy nhiên, ngày 22/3/2021 P đã bán chiếc xe này cho anh Trần Vinh Q theo hợp đồng mua bán được Văn phòng công chứng Đại An công chứng, chứng thực nhưng chưa thực hiện thủ tục sang tên theo quy định. P mượn xe để sử dụng nhưng lại thực hiện hành vi phạm tội anh Q không biết. Vì vậy, đề nghị chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại xe cho anh Q nhận quản lý, sử dụng.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội như trong bản Cáo trạng; các bị cáo không tranh luận, bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong qúa trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của các bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với lời khai của các bị cáo, người liên quan, người chứng kiến trong quá trình điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng đã thu được; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 22 giờ 45 phút ngày 08/4/2021, tại địa chỉ số 49, đường A15, xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột. Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thắng N và Mai Anh P có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần phía sau bên phải P đang mặc 01 gói nylon bên trong chứa ma túy loại Ketamine có khối lượng 1,6399 gam. Thu giữ tại khu vực gần nhà vệ sinh trong nhà 16 gói nylon là ma túy loại Ketamine tổng khối lượng 15,8918 gam; ½ viên nén màu xanh lá cây là ma túy loại MDMA, khối lượng 0,1392 gam. P, N cùng khai nhận đây là ma túy cả hai mua về cất giấu và đã nhiều lần bán cho các con nghiện để kiếm lời. Cụ thể, bán cho 01 người tên “A Tư khách chị Dung” 01 chấm ma túy khay và 01 viên ma túy thuốc lắc, thu lợi số tiền 1.300.000 đồng; bán cho người tên Phong 01 chấm ma túy khay và 02 viên ma túy thuốc lắc, thu lợi số tiền 1.700.000 đồng.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố các bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt từ từ 07 năm đến 15 năm:

…….

b) Phạm tội 02 lần trở lên;” Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về ma túy. Khi phạm tội, các bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức, điều khiển hành vi, các bị cáo biết và buộc phải biết việc mua bán trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào đều là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị pháp luật trừng trị. Bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy nên biết rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe của con người, đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Nhưng do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, ham muốn thu lợi bất chính và có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mục đích và hành vi phạm tội của các bị cáo; phải cách ly bị các cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo; đồng thời đủ sức răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội, trong công cuộc phòng, chống ma túy.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên vai trò, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là khác nhau, nên cần phân hóa từng bị cáo nhằm có hình phạt tương xứng.

Đối với bị cáo P là người chủ mưu, khởi xướng việc mua ma túy để bán kiếm lời, đồng thời là người trực tiếp mua ma túy và phân thành nhiều gói nhỏ và đi giao (bán) cho các đối tượng nghiện ma túy. Bị cáo N là người là người giúp sức, thực hành tích cực, trực tiếp đi bán (giao) ma túy các đối tượng. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo P nghiêm khắc hơn so với bị cáo N.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo và thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; các bị cáo đã tự thú. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với bị cáo Mai Anh P có ông nội là Liệt sỹ, nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ những căn cứ, đánh giá, xem xét và nhận định trên, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp, cần chấp nhận.

- Trong vụ án này, đối với nguồn ma túy, bị cáo P khai mua của một người tên Đ ở khu vực bến xe miền Đông, thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã có công văn trao đổi thông tin tội phạm với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh để điều tra xử lý theo thẩm quyền, là phù hợp.

- Đối với những lần mua bán ma túy trước của các bị cáo P, N và các lần bán ma túy cho các đối tượng như: anh Tư khách chị Dung, Phong, Tí, anh Bi bự, Lu, Vinh móm, S1, Nguyên. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng các bị can không xác định được những lần bán, tiền thu lợi bất chính. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để xử lý và tách hành vi này và hành vi của các đối tượng ra khỏi vụ án tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau.

- Đối với nhà, đất địa chỉ số 49 đường A15 xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột đã xác định đây là tài sản vợ chồng bà Vũ Thị Đ, ông Trần Anh T cho bị cáo P thuê, không liên quan đến hành vi phạm tội với hai bị cáo nên Cơ quan điều tra không đề cập xem xét xử lý, là phù hợp.

- Quá trình điều tra đã xác định bị cáo P, N không sử dụng ma túy cùng nhau, không sử dụng ma túy tại chỉ số 49 đường A15 xã Cư Êbur, thành phố Buôn Ma Thuột. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý các bị can về hành vi phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy hoặc Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

- Đối với Võ Sơn L, Lữ Thị Thu U, Bùi Thị Thu T, quá trình điều tra đã xác định không liên quan đến hành vi phạm tội cùng với các bị cáo, không có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xem xét xử lý là phù hợp.

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị can P, N. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.

[3] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 15,1206 gam Ketamine và 0,1112 gam MDMA; 9,8568 gam viên nén màu xanh, đỏ và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật trong 02 gói niêm phong số 423/GĐMT-PC09 ngày 15/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk và số 679/C09C – Đ2 ngày 24/6/2021 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Đà Nẵng còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

+ Tịch thu, sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm sim 0856.585.156 của Nguyễn Thắng N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim số 0847.999.943 của Mai Anh P và số tiền 3.000.000 đồng là tài sản các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và thu lợi bất chính.

+ Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho anh Trần Vinh Q nhận quản lý, sử dụng chiếc xe mô tô BKS 47H1 – 669.66 mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

[1] Tuyên bố:

Các bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt Mai Anh P: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù: Kể từ ngày bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam, ngày 08/4/2021.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt Nguyễn Thắng N: 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù: Kể từ ngày bắt quả tang và tạm giữ, tạm giam, ngày 08/4/2021.

[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy 15,1206 gam Ketamine và 0,1112 gam MDMA; 9,8568 gam viên nén màu xanh, đỏ và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật trong 02 gói niêm phong số 423/GĐMT-PC09 ngày 15/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk và số 679/C09C – Đ2 ngày 24/6/2021 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Đà Nẵng còn lại sau giám định là tang vật của vụ án.

+ Tịch thu, sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm sim 0856.585.156 của Nguyễn Thắng N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone kèm sim số 0847.999.943 của Mai Anh P và số tiền 3.000.000 đồng là tài sản các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và thu lợi bất chính.

(Đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/9/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Buôn Ma Thuột).

+ Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho anh Trần Vinh Q nhận quản lý, sử dụng chiếc xe mô tô BKS 47H1 – 669.66 mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.

(Đặc điểm như biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 28/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Tp. Buôn Ma Thuột với anh Trần Vinh Q).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Các bị cáo Mai Anh P và Nguyễn Thắng N, mỗi phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 286/2021/HSST ngày 23/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:286/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về