Bản án 28/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 28/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 01 và 02 tháng 6 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Na xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 24/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Vi Văn C; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1976, tại huyện Q, tỉnh Na.

Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện Q, tỉnh Na (Nay là khối H, thị trấn K, huyện Q, tỉnh Na); nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vi Văn Th (Đã chết); con bà: Vi Thị Th (Đã chết); có vợ: Vi Thị A và 02 người con; tiền án: Năm 2007 bị Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Na xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong hình phạt chính từ ngày 14/02/2019; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/01/2020. Có mặt.

Ni bào chữa cho bị cáo Vi Văn C: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Na. Có mặt.

Ni làm chứng:

- Anh Vi Văn Đ, sinh năm 1971; trú tại khối Th, thị trấn K, huyện Q, tỉnh Na. Vắng mặt.

- Chị Quang Thị Th, sinh năm 1976; trú tại khối H, thị trấn K, huyện Q, tỉnh Na. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 12/01/2020 Vi Văn C đi lên xã Tr, huyện Q mua 01 gói Heroine và 02 gói Methamphetamine về cất giấu. Đến khoảng 17 giờ, ngày 15/01/2020 có một người tên Trang đến hỏi mua 4 gói Methamphetamine với giá mỗi gói 3.500.000 đồng. Bị cáo trả lời không có, nếu muốn mua thì đưa tiền cho bị cáo đi mua cho. Hiện nay còn hơn một gói bị cáo để sử dụng và không bán. Cùng lúc đó bị cáo đưa 2 viên ma túy ra cùng với người tên Trang sử dụng thì bị bắt quả tang. Thu giữ của Vi Văn C 01 gói chất bột màu trắng; 02 gói viên nén màu hồng có 264 viên và 01 chiếc cân tiểu ly. Lợi dụng sơ sở người tên Trang bỏ trốn.

Ti cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn C có khối lượng 2,1 gam; 02 gói (264 viên) nén màu hồng thu giữ của Vi Văn C có tổng khối lượng 26,4 gam.

Bản kết luận giám định số 186/KL- PC09(Đ2-MT) ngày 20/01/2020 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Na kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn C (ký hiệu A3) gửi tới giám định là Heroine. Chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn C có khối lượng 2,1 gam (Hai phẩy một gam).

Hai mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu A1, A2) thu giữ của Vi Văn C gửi tới giám định đều là Methamphetamine. Số viên nén màu hồng (02 gói) thu giữ của Vi Văn C có tổng khối lượng 26,4 gam (Hai mươi sáu phẩy bốn gam).

Ti phiên tòa hôm nay bị cáo Vi Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Vào lúc 17 giờ, ngày 15/01/2020 tại khối H, thị trấn K, huyện Q, tỉnh Na, có một người tên Trang đến hỏi mua ma túy với bị cáo, bị cáo nói không có ma túy bán, chỉ còn một ít để sử dụng, nếu muốn mua thì đưa tiền cho bị cáo đi mua cho, nhưng người tên Trang không nói gì; đồng thời bị cáo đưa ma túy ra sử dụng thì bị bắt quả tang; thu của bị cáo 2,1 gam Heroine và 26,4 gam Methamphetamine. Bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý.

Cáo trạng số 25/CT-VKS- QP ngày 14/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Na truy tố bị cáo Vi Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo các điểm p, q khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Đi với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, do không xác minh được họ tên và địa chỉ, nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Ti phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q thay đổi quyết định truy tố, từ tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sang tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng các điểm n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vi Văn C từ 08 đến 09 năm tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Ni bào chữa nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về chuyển tội danh từ tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sang tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng vào lúc 17 giờ, ngày 15/01/2020 tại khối H, thị trấn K, huyện Q, tỉnh Na, bị cáo Vi Văn C đang sử dụng trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Thu 2,1 gam Heroine và 26,4 gam Methamphetamine. Bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước; bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, đây là trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm n, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng; bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng định khung trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q chuyển tội danh từ tội “Mua bán trái phép chất ma túy” sang tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn C từ 08 đến 09 năm tù; người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [6] Về vật chứng: Đối với 2,1 gam Heroine. Cơ quan điều tra đã lấy đi giám định chất ma túy 0,3 gam, còn lại 1,8 gam; 264 viên Methamphetamine cơ quan điều tra lấy đi giám định chất ma túy 27 viên, còn lại 237 viên. Đây là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc cân tiểu ly không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án, nên phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Vi Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào các điểm n, o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Phạt Vi Văn C 08 (Tám) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/01/2020.

Căn cứ vào các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ một phong bì thư bưu điện, bên trong có 1,8 (Một phẩy tám) gam Heroine; 237 (Hai trăm ba mươi bảy) viên Methamphetamine; 01 (Một) chiếc cân tiểu ly;

vỏ gói ma túy thu giữ của bị cáo Vi Văn C; phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 27/3/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Na.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Vi Văn C có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Na trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về