Bản án 28/2019/HS-ST ngày 27/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Đ, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 27/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, hồi 09 giờ 00 ngày 27 tháng 08 năm 2019 tại Toà án nhân dân quận Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 236/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 08 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 245/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 08 năm 2019 đối với bị cáo:

ĐỖ ĐĂNG N, sinh ngày 15/09/1985 tại thành phố H; HKTT: số 69, tổ 5, phường K, quận Đ, Thành phố H; Chỗ ở: số 36, ngách 32/39 Đỗ Đức D, phường M, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đăng L và bà Nguyễn Thị Kim T; tiền án: Ngày 27/04/2018, Tòa án nhân dân quận N xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 29/06/2000, Công an quận Đ, thành phố H xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 03/11/2000, Công an quận Đ lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng 12 tháng; Ngày 28/02/2003, UBND TP.H ra QĐ số 182 đưa đi trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục thời hạn 12 tháng; Ngày 05/05/2005, Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Ngày 19/10/2007, Tòa án nhân dân quận B, thành phố H xử phạt 03 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 28/08/2013, Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Danh chỉ bản số 372 lập ngày 28/04/2019 tại Công an quận Đ, thành phố H; Bị bắt ngày 28/04/2019; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Xuân N; sinh năm 1983; Chỗ ở: Tổ dân phố dưới, phường T, quận N, thành phố H. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13h00’ ngày 28/04/2019 tại trước số 34 phố H, phường T, quận Đ, thành phố H, tổ công tác C2D5 – PK02E Công an thành phố H kiểm tra hành chính đối với Đỗ Đăng N đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu vàng, BKS: 29L1 – 197.76. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ trong túi quần phía trước bên trái Nam đang mặc có 01 túi nilon màu trắng kích thước 02 x 03 cm bên trong có chứa chất bột màu trắng, 01 gói giấy bạc kích thước khoảng 01 x 02 cm bên trong có chứa chất bột màu trắng. Ngoài ra, cơ quan công an còn tạm giữ của Nam 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu vàng, BKS: 29L1 – 197.76; số máy: 3140372; số khung: 340316.

Tại bản kết luận giám định số: 2701/KLGĐ-PC09 ngày 07/05/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon và gói giấy bạc đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng: 0,437 gam.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Đăng N khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Nam khai nhận: Khoảng 08h ngày 28/04/2019, N điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu vàng, BKS: 29L1 – 197.76 đi vào bệnh viện Đ để điều trị. Khoảng 12h20’ Nam lấy xe máy để đi về, khi Nam đi ra đến cổng bệnh viện Đ thì gặp H (là bạn xã hội). Tại đây, N nhờ H mua cho N 400.000 đồng tiền ma túy loại Heroine thì H đồng ý. H cầm 400.000 đồng do N đưa rồi bỏ đi khoảng 05 phút sau quay lại và đưa cho N 01 túi nilon màu trắng bên trong có: 01 túi nilon màu trắng có chứa chất bột màu trắng và 01 gói giấy bạc kích thước bên trong có chứa chất bột màu trắng. N biết là ma túy nên đã cầm và cất giấy vào trong túi quần phía trước bên trái của N rồi điều khiển xe máy về nhà để sử dụng. Khi N đi tới khu vực trước cửa số nhà 34 H thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Đối với người phụ nữ tên H đã mua hộ ma túy cho N, N không biết tên địa chỉ, lai lịch cụ thể nên cơ quan điều tra không làm rõ để xử lý được.

Ti bản cáo trạng số 238/CT-VKS ngày 01/08/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ truy tố Đỗ Đăng N về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249- Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng nêu là đúng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là phạm tội và ăn năn hối cải. Bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ: điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 22 đến 26 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo xuất trình các tài liệu, chứng cứ phù hợp quy định pháp luật, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với bản kiểm điểm, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của nhân chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 13h00’ ngày 28/04/2019, tại trước số nhà 34 phố H, phường T, quận Đ, thành phố H, tổ công tác C2D5-PK02E Công an thành phố H đã tiến hành kiểm tra hành chính và bắt quả tang Đỗ Đăng N có hành vi tàng trữ trái phép 0,437 gam ma túy loại Heroin với mục đích sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, thành phố H truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, tiếp tay cho các loại tội phạm về ma túy khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có nhân thân xấu 04 tiền án trong đó có 01 tiền án chưa được xóa, phạm tội lần này xác định là tái phạm nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về những vấn đề khác: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Hội đồng xét xử xét:

Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy thu giữ là 0,437 gam Heroin. Đây là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu vàng, BKS: 29L1-197.76 (Số máy: 3140372, số khung: 340316) tạm giữ của Đỗ Đăng N. Qua xác minh chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của anh Bùi Xuân N (Sinh năm: 1983, Nơi cư trú: Tổ dân phố Dưới, phường T, quận N, TP H) nên cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho anh N là đúng quy định pháp luật.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Từ lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Đỗ Đăng N phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy ”.

Căn cứ: Điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đỗ Đăng N 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/04/2019.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 - Bộ luật tố tụng hình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của đối tượng Đỗ Đăng N, chữ ký của giám định viên Trần Ngọc C, chữ ký của cán bộ CAP T, chữ ký của người chứng kiến Đoàn Quốc T. Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Đ (Biên bản giao nhận vật chứng số: 272 ngày 06/08/2019).

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 27/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về