Bản án 28/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH T

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2019/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Thành T, sinh năm 1989, tại Tây Ninh; Nơi cư trú: ấp T, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn 5/12; dân tộc: kinh; giới Th: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C (đã chết) và bà Lê Thị Hương K; Vợ, con: chưa có; tiền án: không, tiền sự: không; Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2009/HSST ngày 25-6-2009 của Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ ngày 10-01-2019, tạm giam ngày: 15-01-2019 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Khương Thị Thùy A, sinh năm 1992, tại Tây Ninh; Nơi cư trú: khu phố III, thị trấn H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh, tôn giáo: Cao đài; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Khương Thành L và bà Nguyễn Thị Anh Đ; chồng con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo bị tạm giữ ngày 10-01-2019, tạm giam ngày: 15-01-2019 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 23 giờ 00 phút ngày 09-01-2019, tại nhà ở của Lê Thành T thuộc ấp T, xã H, huyện H, tỉnh T, Phòng cảnh sát hình sự điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh T tiến hành kiểm tra, thu giữ 02 đoạn ống nhựa màu xanh sọc trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất rắn màu trắng được gói trong tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng do Khương Thị Thùy A giấu trong lưng quần. Khám xét nơi ở của T Công an thu giữ một số đồ vật khác có liên quan đến việc sử dụng ma túy.

Qua điều tra đã chứng minh được: Lê Thành T và Khương Thị Thùy A là người nghiện ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 21 giờ ngày 09-01-2019, T đưa cho A 400.000 đồng và dùng xe mô tô biển số 70G1-235.57 của gia đình, do anh ruột của T là ông Lê Thành Hiếu đứng tên chủ sở hữu (ông Hiếu không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy) chở A đến nhà của T1 thuộc khu vực ấp T, xã Đ, huyện C, tỉnh T để mua ma túy về sử dụng. Khi đến đường vào nhà T1, T đứng bên ngoài chờ, A vào gặp T1 mua 02 tép ma túy với giá 400.000 đồng rồi giấu vào lưng quần đang mặc đi ra T chở về nhà thì bị bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 48/KL-KTHS ngày 11-01-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận:

Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 02 đoạn ống nhựa màu xanh sọc trắng hàn kín hai đầu (ký kiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, là loại Heroin, khối lượng 0,2926 gam.

Đi với đối tượng tên T1 bán ma túy cho T và A hiện chưa làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Qua xác minh bị cáo Lê Thành T và Khương Thị Thùy A không có tài sản nên không tiến hành kê biên.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSHT ngày 27-3-2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh T đã truy tố các bị cáo Lê Thành T, Khương Thị Thùy A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

-Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố trong phần tranh luận: Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và Điều luật đối với các bị cáo Lê Thành T và Khương Thị Thùy A, đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T mức án từ 02 năm đến 03 năm tù, xử phạt bị cáo A từ 01 năm đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng của bị cáo:

Bị cáo T: Bị cáo hối hận về hành vi của mình, bị cáo xin lỗi gia đình bị cáo A, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và bị cáo A để sớm hòa nhập cộng đồng, cải tạo làm người có ích cho xã hội.

Bị cáo A: Bị cáo xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để sớm được hòa nhập cộng đồng, làm người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, tỉnh T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội của các bị cáo, đồng thời với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên ngày 09- 01-2019, Bị cáo Lê Thành T chở bị cáo Khương Thị Thùy A đi mua ma túy của đối tượng tên T1 (không rõ lai lịch) với số tiền 400.000 đồng về để sử dụng. Sau khi mua được ma túy An giấu trong lưng quần đang mặc, T chở An về nhà của T đang ở thì bị Phòng cảnh sát hình sự điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh T bắt quả tang. Kết luận giám định 02 đoạn ống nhựa màu xanh sọc trắng hàn kín hai đầu, bên trong có chứa chất rắn màu trắng là chất ma túy, loại Heroin, khối lượng 0,2926 gam. Hành vi của các bị cáo đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn và các tội phạm về ma túy, gây ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của con người, hủy hoại sức khỏe, giảm khả năng lao động, tăng nguy cơ lây nhiễm các căn bệnh HIV-AIDS và là một trong những nguyên nhân gây ra tội phạm khác; nên cần phải có hình phạt tương xứng đối với các bị cáo để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Đối với bị cáo T có nhân thân xấu, năm 2009 đã từng bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích. Tuy nhiên bị cáo không ăn năn hối cải mà tiếp tục phạm tội. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo T phải chịu trách nhiệm hình sự chính trong vụ án và cao hơn so với bị cáo A do bị cáo T là người chủ động đưa tiền cho bị cáo A và chở bị cáo A đi mua ma túy. Còn đối với bị cáo A thì không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, do đó cần xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Một gói niêm phong ghi vụ số 48/KL-KTHS có chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý Nguyễn Hoàng Chi Mai và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh T là chất ma túy, loại Heroin; 01 ống bơm kim tiêm dùng sử dụng ma túy; 01 ông thủy tinh dùng sử dụng ma túy đá; 01 cái hộp quẹt là các dụng cụ để các bị cáo sử dụng ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Các bị cáo Lê Thành T, Khương Thị Thùy A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Thành T, Khương Thị Thùy A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Thành T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn thi hành hình phạt tù được tính từ ngày 10-01-2019.

Xử phạt bị cáo Khương Thị Thùy A 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn thi hành hình phạt tù được Th từ ngày 10-01-2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy một gói niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T đề vụ số 48/KL-KTHS có chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý Nguyễn Hoàng Chi Mai và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh T; 01 ống bơm kim tiêm dùng sử dụng ma túy; 01 ông thủy tinh dùng sử dụng ma túy đá; 01 cái hộp quẹt.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Lê Thành T, Khương Thị Thùy A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về