Bản án 28/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 05 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến P, sinh ngày 11 tháng 9 năm 1997 tại thị xã P, Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT: Xóm C3, xã Đ, thị xã P, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Ph và bà Nguyễn Thị Th; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 21/01/2019 cho đến nay (Có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanAnh Bùi Ngọc H, sinh năm 1998; Trú tại: Xóm Đ xã Đ, thị xã P, tinh Thái Nguyên.

(Vắng mặt - Có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người làm chứng :

Bà Trần Thị T, sinh năm 1965; Trú tại: Tổ 2A, phường P, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.

(có mặt)

Ông Phạm Trung T, sinh năm 1968; Trú tại: Tổ 2A, phường P, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ 45 phút ngày 21 tháng 01 năm 2019, tổ công tác Công an thành phố Sông Công kiểm tra hành chính tại nhà nghỉ Quỳnh Mai, thuộc tổ dân phố 2A, phường P, thành phố S phát hiện Nguyễn Tiến P có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra hành chính đối với P. Ngay tại nhà để xe của nhà nghỉ Quỳnh Mai, P tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói nhỏ chứa hạt tinh thể màu trắng, 01 gói nhỏ chứa hai viên nén màu hồng P cất giấu trong túi áo khoác bên phải P khai là ma túy dạng đá mục đích cất giữ để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ toàn bộ số vật chứng và tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, 620.000 đồng và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, biển kiểm sát 20L4-8500.

Tiến hành cân xác định 01 gói nhỏ chứa hạt tinh thể màu trắng có khối lượng là 0,995 gam (không phẩy chín chín năm gam) và 02 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,206 gam (không phẩy hai không sáu gam).

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sông Công đã trưng cầu giám định số tinh thể và viên nén thu giữ của P, tại kết luận giám định số 345/KL-PC09 ngày 29 tháng 01 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Số hạt tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,995 gam; Hai viên nén màu hồng gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,206 gam Quá trình điều tra làm rõ: Do bản thân là người nghiện ma túy nên khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21 tháng 01 năm 2019 P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 20L4-8500 đi từ nhà đến khu vực sân bóng thuộc xóm Ruộng, xã Đắc Sơn, thị xã Phổ Yên. Tại đây, P gặp và mua của một nam thanh niên (không rõ tên tuổi địa chỉ) 950.000 đồng tiền ma túy, người thanh niên nhận tiền và đưa cho P 01 gói nhỏ chứa tinh thể màu trắng và 01 gói nhỏ chứa hai viên nén màu hồng là ma túy. P cầm hai gói ma túy cất giấu vào túi áo bên phải và đi đến nhà nghỉ Quỳnh Mai thì gặp tổ công tác Công an thành phố Sông Công kiểm tra phát hiện bắt quả tang việc tàng trữ ma túy và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Về vật chứng và đồ vật liên quan trong vụ án: Xe môtô biển số đăng ký 20L4-8500, quá trình điều tra xác định được là của anh Bùi Ngọc Hải – Địa chỉ: Xóm Đầm, xã Đắc Sơn, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, anh Hải cho P mượn xe, nhưng không biết P sử dụng để đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho anh Hải quản lý, sử dụng. Hai bì niêm P kí hiệu P1 bên trong có 0,870 gam Methamphetamine và P2 bên trong có 0,104 gam Methamphetamine (là số Methamphetamine còn lại sau khi trưng cầu giám định), một điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Nokia đưa vào bì niêm P kí hiệu Đ; Số tiền 620.000 đồng hiện được bảo quản theo quy định quản lý vật chứng Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 25/04/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến P về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Tiến P mức án từ 24 đến 30 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 P bì niêm P kí hiệu P1 bên trong có 0,870 gam Methamphetamine và 01 P bì niêm P ký hiệu P2 bên trong có 0,104 gam Methamphetamine (là số Methamphetamine còn lại sau khi trưng cầu giám định).

Tch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động màu đen. Tạm giữ số tiền 620.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Tiến P không tranh luận, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Kết luận điều tra và Cáo trạng tuy tố, bị cáo đã nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sông Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sông Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Hi 10 giờ 30 phút ngày 21/01/2019, tại tổ 2A, phường Phố Cò, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Tiến P đang tàng trữ trái phép 02 gói ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng 1,201 gam nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, nội dung điều luật như sau:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Methamphetamine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…”.

[3] Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng. Ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm minh bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm cải tạo, giáo dục và đấu tranh phòng chống tội phạm.

[4] Xét các yếu tố về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 7/12, bản thân không có nghề nghiệp ổn định, là đối tượng nghiện ma túy, chưa có tiền án, tiền sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ tính chất vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: bị cáo là người có hiểu biết xã hội nhất định, được gia đình tạo điều kiện nuôi ăn học nhưng không có ý thức tu dưỡng bản thân mà còn sa vào tệ nạn xã hội, mặc dù đã được gia đình khuyên bảo, động viên nhưng vẫn không quyết tâm từ bỏ ma túy dẫn đến hậu quả vi phạm pháp luật hình sự. Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng mức án tương xứng với hành vi phạm tội, buộc cách ly xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với xe môtô biển số đăng ký 20L4-8500, quá trình điều tra xác định được là của anh Bùi Ngọc Hải – Địa chỉ: Xóm Đầm, xã Đắc Sơn, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, anh Hải cho P mượn xe, nhưng không biết P sử dụng để đi mua ma túy, Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho anh Hải quản lý, sử dụng là phù hợp.

Số ma túy bị thu giữ của P là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Một điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Nokia tại giai đoạn điều tra có xác định bị cáo đã sử dụng vào việc giao dịch mua ma túy nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đi với số tiền 620.000 đồng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc số ma túy, P khai mua của một người thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực sân bóng thuộc xóm Ruộng, xã Đắc Sơn, thị xã Phổ Yên nên không có căn cứ xem xét xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tiến P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Tiến P 24(Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2019.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 P bì niêm P kí hiệu P1 bên trong có 0,870 gam Methamphetamine và 01 P bì niêm P ký hiệu P2 bên trong có 0,104 gam Methamphetamine (là số Methamphetamine còn lại sau khi trưng cầu giám định).

Tch thu sung công quỹ nhà nước một điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Nokia đựng trong P bì có ký hiệu Đ.

Tm giữ số tiền 620.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/05/2019 giữa Công an thành phố Sông Công và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sông Công )

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Tiến P phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về