Bản án 28/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 28/2019/HS-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn Đ sinh năm 1995, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Tổ dân phố T, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn B và bà Nguyễn Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Bản án số 35 ngày 11 tháng 3 năm 2013 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 28 ngày 11 tháng 3 năm 2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, Bản án số 05 ngày 23 tháng 5 năm 2016 của Tòa án quân sự khu vực 2 Quân khu 3 xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18 tháng 9 năm 2018 - chưa được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 02 tháng 01 năm 2019 đến ngày 05 tháng 01 năm 2019 chuyển tạm giam; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Văn Bình - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Quang D sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 24 tháng 10 năm 2018, Phạm Văn Đ đến nhà chị Tô Thị T, sinh năm 1984, ở tổ dân phố C, thị trấn M, huyện T chơi và sạc nhờ điện thoại. Một lúc sau, Đ phát hiện chiếc điện thoại của mình bị mất. Ông Bùi Văn D sinh năm 1955 (là bố chồng chị T) nói với Đ có nhìn thấy một người thanh niên mặc quần áo màu xanh công nhân đi từ ngõ nhà chị T ra. Nghe ông D nói vậy, Đ mang theo 01 con dao (dạng dao bấm, đầu nhọn, lưỡi sắc, dài khoảng 20 cm, bản rộng khoảng 02 cm) cất trong túi quần từ trước, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29Y5-050.04 cùng chị T ra khu vực chợ Con ở tổ dân phố Chiến Thắng, thị trấn Minh Đức để tìm người có đặc điểm như ông Dưa nói. Khi đến khu vực ngã ba chợ Con, Đ gặp anh Nguyễn Quang D sinh năm 1985 ở tổ dân phố C, thị trấn M, huyện T mặc bộ quần áo công nhân màu xanh. Đ dừng xe đến hỏi anh D: “Toàn anh em với nhau sao anh lại lấy điện thoại của em”. Bực tức vì bị đổ oan nên D đã chửi và dùng tay đấm Đ rồi bỏ chạy vào trong chợ. Đ rút dao từ trong người ra đuổi theo anh D. Anh D chạy đến khu vực quầy hàng của anh Vũ Trọng Ngọc A rút chiếc cọc ô bằng kim loại tròn, dài khoảng 70 cm vụt một nhát về phía người Đ, Đ đỡ và giằng được gậy sắt vụt lại D, D giơ tay đỡ, giằng co gậy với Đ. Trong lúc giằng co, Đ dùng dao đâm liên tiếp 2-3 nhát về phía người D, trong đó một nhát trúng vào vùng cổ của D. D bị thương chạy vào quán của bà L lấy 02 chiếc búa rìu đuổi đánh Đ. Đ để lại xe mô tô, cầm dao bỏ chạy. Trên đường bỏ chạy Đ đã vứt dao đi, Cơ quan điều tra không thu được. Anh D đuổi theo Đ do thương tích chảy nhiều máu đã bị ngất, được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Việt Tiệp đến ngày 02/11/2018 ra viện.

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, nhận được báo cáo của Công an thị trấn Minh Đức, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thủy Nguyên đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 29Y5-050.04 của Đ để lại.

Tại Bản kết luận giám định số 576/2018/TgT ngày 14 tháng 11 năm 2018 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận anh D có các thương tích: Một vết thương rách da chảy máu ở vùng trước cổ dài 01cm, vùng nền cổ phải có 01 vết xây xước kích thước 01x0.4cm; vùng trước vai trái bị bầm tím kích thước 02x2.2cm; vùng mặt sau khuỷu tay trái có 02 vết xây xước da kích thước 0,9x0,2cm và 1,1x0,1cm. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do vết thương vùng cổ gây nên là 14%. Các vết bầm tím, xây xước da không đủ lớn để đánh giá tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể. Vết thương vùng cổ có đặc điểm do vật sắc nhọn tác động trực tiếp theo hướng chủ yếu từ trước ra sau và chếch từ trái sang phải gây nên. Vết bầm tím vai trái có đặc điểm do vật tày gây nên. Các vết xây xước da có đặc điểm do vật có góc cạnh cứng, có thể tương đối sắc hoặc sắc nhọn tác động trực tiếp gây nên.

Quá trình điều tra, Đ bỏ trốn, đến ngày 02 tháng 01 năm 2019 bị bắt theo Quyết định truy nã. Tại Cơ quan điều tra Đ đã khai nhận hành vi của mình như trên.

Vật chứng vụ án không thu hồi được. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29Y5-050.04, Phạm Văn Đ khai mượn của anh Phạm Văn D, sinh năm 1976, ở thôn 5, xã N, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình điều tra, chưa xác minh được nguồn gốc chiếc xe trên nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau.

Về dân sự: Trong giai đoạn điều tra, gia đình Phạm Văn Đ đã bồi thường cho anh Nguyễn Quang D số tiền 1.500.000 đồng. Anh D không yêu cầu Đ phải bồi thường thêm khoản chi phí nào khác.

Tại phiên tòa bị cáo thống nhất trình bày về hành vi như đã nêu trên.

Người bào chữa cho bị cáo phát biểu: Đồng ý với Tội danh, điều luật như bà Kiểm sát viên đã đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh bị cáo là hộ nghèo, bị nhiễm HIV, ăn năn hối cải và người bị hại có lỗi để cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự (BLHS); miễn án phí cho bị cáo.

Bà Kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo đồng ý với nội dung Kết luận giám định pháp y, không có ý kiến hay khiếu nại gì.

Bản Cáo trạng số 23/2019/CT-VKS ngày 12 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Phạm Văn Đ về tội Cố ý gây thương tích quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS. Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm h khoản 1 Điều 52; các điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù; miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Hành vi bị cáo Phạm Văn Đ dùng dao (là hung khí nguy hiểm) đâm vào vùng cổ anh D gây thương tích, làm giảm 14% sức khỏe là phạm tội Cố ý gây thương tích; tội phạm và hình phạt đối với bị cáo được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội bị loại trừ.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, hung hãn, coi thường pháp luật, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự xã hội. Năm 2016 bị cáo bị kết án chưa được xóa án tích, nay lại phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS; bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Do không chứng minh được nguyên cớ dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do lỗi của người bị hại nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[4] Về hình phạt: Cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo mức án bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Chiếc cọc ô bằng kim loại và con dao bị cáo đã dùng để gây thương tích cho anh D không thu hồi được; cơ quan điều tra đã truy tìm tang vật nhưng không có kết quả nên không xử lý.

[6] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Người bị hại không yêu cầu bồi thường khoản nào khác nên không xét. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29Y5-050.04 bị cáo khai mượn của anh Phạm Văn D sinh năm 1976, ở thôn 5, xã N, huyện T; do chưa xác minh được nguồn gốc chiếc xe trên nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau là phù hợp pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn nộp án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử phạt: Phạm Văn Đ 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 02 tháng 01 năm 2019.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn Đ.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2019/HS-ST ngày 07/05/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:28/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về