Bản án 278/2018/HSST ngày 30/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 278/2018/HSST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 264/2018/TLST-HS ngày 05/11/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 260/2018/QĐXXST-HS ngày 07/11/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn N - Sinh ngày 11/11/1964 tại tỉnh Q

Nơi cư trú: Tổ 37, khu 4, phường C, thành phố H, tỉnh Q; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;

Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Văn C - Sinh năm 1934 Con bà Đỗ Thị H - Sinh năm 1943;

Vợ là: Lại Thị T - sinh năm 1964 (có 02 con, lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1993);

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Năm 2001 bị TAND thị xã C (nay là TAND thành phố C) xử phạt 30 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Năm 2011 bị TAND thành phố H xử phạt 4 năm 6 tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Năm 2007 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội Vũ Oai, huyện H, tỉnh Q.

Bị bắt quả tang ngày 06/9/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q, có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Nguyễn Anh T vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 06/9/2018 Công an thành phố H kiểm tra phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn N có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy“. Công an thu giữ của N 16 túi nilon, kích thước (01x01) cm, trong mỗi túi đều có chứa chất tinh thể màu trắng (Bút lục số 22, 23 và từ số 36 - 46).

Tại Bản kết luận giám định số 595/GĐMT ngày 09/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận: Chất tinh thể màu trắng có trong 16 túi nilon thu giữ của Nguyễn Văn N gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng 1,05g (Một phẩy không năm gam) (Bút lục số 32) Tại cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận: Vào khoảng 19 giờ ngày 06/9/2018, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Văn N ra khu vực ngã tư Loong Toòng, thuộc phường C, thành phố H tìm mua ma túy. Tại đây, N gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy đá, với giá 2.000.000đồng rồi đem về sử dụng một ít, phần còn lại chia ra đóng thành 16 túi nhỏ để sử dụng dần. Đến khoảng 23h30’ ngày 06/9/2018 N mang 16 gói ma túy đá trên và cất giấu tại túi áo ngực đang mặc với mục đích khi có nhu cầu thì sẽ sử dụng cho bản thân. Khi N đang đứng tại khu vực thuộc tổ 2, khu 8, phường C, thành phố H thì Công an kiểm tra phát hiện N tàng trữ ma túy và thu tại túi áo ngực N đang mặc 01 túi nilon bên trong có 16 gói ma túy đá.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung vụ án được thể hiện trong Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo.

Số Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Văn N sau giám định hoàn lại 1,05g (Một phẩy không lăm gam). Cơ quan điều tra đã chuyển nhập kho vật chứng của Công an thành phố H bảo quản chờ xử lý theo quy định.

Người làm chứng các anh Nguyễn Anh T và Nguyễn Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại Cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo về việc vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 06/9/2018, các anh chứng kiến Công an kiểm tra bắt giữ bị cáo Nguyễn Văn N, thu giữ tại túi ái ngực N đang mặc 01 (Một) túi ni lon, trong có 16 (Mười sáu) gói nhỏ có chứa tinh bột màu trắng, N khai là ma túy đá.

Tại bản Cáo trạng số 261/CT-VKSHL ngày 01/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Nguyễn Văn N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy" và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 06/9/2018.

Đề nghị xử lý vật chứng và không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn N khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thành phố H, tỉnh Q lập hồi 00 giờ 05 phút ngày 07/9/2018, Biên bản khám xét lập hồi 02 giờ 10 phút ngày 07/9/2018 tại chỗ ở của N, phù hợp với Bản kết luận giám định số 595/GĐMT ngày 09/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 06/9/2018, tại khu vực tổ 2, khu 8, phường C, thành phố H, tỉnh Q, bị cáo Nguyễn Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 1,05g Metham phetamine, mục đích sử dụng, thì bị Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Do vậy hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý về chất gây nghiện của Nhà nước. Bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma tuý bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình vi phạm. Do đó cần tuyên cho bị cáo một mức án nghiêm minh mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là đối tượng sử dụng chất ma tuý và đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’; Năm 2011 bị Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 04 (Bốn) năm, 06 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Năm 2007 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội Vũ Oai, huyện H, tỉnh Q.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở lại với gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo tịch thu tiêu hủy theo quy định của Pháp luật. Vật chứng sau giám định hoàn lại hiện đang tạm giữ tại Chi cụ thi hành án dân sự thành phố H.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội: "tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 06/9/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 0,16g (Không phẩy mười sáu gam) Methamphetamine hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 595/GĐMT ngày 09/9/ 2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 28/BB-THA ngày 09/11/2018 giữa Công an thành phố H và Chi cục thi hành án thành phố H).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 278/2018/HSST ngày 30/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:278/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về