Bản án 27/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 4 năm 2020 và Thông báo chuyển ngày xét xử số 371/TB-TA ngày 24/4/2020 đối với bị cáo:

Nguyn Văn S, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 20 tháng 01 năm 1990 tại huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu G1, thị trấn Đ1, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở: Khu G2, thị trấn Đ2, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quý M (đã chết) và bà Ngụy Thị T, sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 37/2009/HSST ngày 14/9/2009 Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội Cố ý gây thương tích, đã chấp hành xong hình phạt, án phí, thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích; chưa bị xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 06/12/2019 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Ngụy Thị T, sinh năm 1964. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu G1, thị trấn Đ1, huyện C1, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Khu G2, thị trấn Đ2, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Chu Đức P, sinh năm 1970. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn S nghiện chất ma túy và đang điều trị cai nghiện bằng thuốc Methadone. Ngày 04/12/2019, Nguyễn Văn S nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng và không uống thuốc cai nghiện nữa nên một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** đi từ nhà trọ tại khu G2, thị trấn Đ2, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn vào khu vực đường mòn L thuộc xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Nguyễn Văn S gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ), qua trao đổi Nguyễn Văn S đã mua với người này 05 (năm) gói nhỏ chất ma túy với giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng, sau đó Nguyễn Văn S cất giấu vào túi áo khoác đang mặc rồi đi về nhà trọ, tại đây Nguyễn Văn S lấy ra 04 (bốn) gói ma túy để sử dụng bằng hình thức chích, còn lại 01 (một) gói ma túy Nguyễn Văn S cất vào trong tủ quần áo ở đầu giường ngủ, mục đích khi nào lên cơn nghiện thì sẽ lấy ra sử dụng tiếp.

Ngày 05/12/2019, Nguyễn Văn S làm xe ôm ở khu vực cửa khẩu C, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; đến khoảng 16 giờ chiều Nguyễn Văn S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** đi đến đường mòn L thuộc xã T1, huyện V, tỉnh Lạng Sơn để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Nguyễn Văn S gặp và hỏi mua ma túy với người đàn ông hôm trước đã bán ma túy cho mình; Nguyễn Văn S đưa 2.000.000 (hai triệu) đồng, người đàn ông đó nhận tiền và đưa lại cho Nguyễn Văn S 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 20 (hai mươi) giấy nhỏ chứa chất ma túy. Sau khi nhận được số ma túy trên, Nguyễn Văn S đã lấy 01 (một) gói ma túy ra sử dụng ngay tại đường mòn L, còn 19 (mười chín) gói ma túy Nguyễn Văn S cất vào túi áo khoác đang mặc rồi đi về nhà trọ. Khoảng 10 giờ ngày 06/12/2019, khi Nguyễn Văn S đang ngồi trên xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** đỗ trước cửa bãi xe T3 thuộc khu vực cửa khẩu C thuộc xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị Tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Đồn biên phòng T1 đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra và bắt quả tang.

Tổ công tác đã tạm giữ của Nguyễn Văn S gồm: 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 19 (mười chín) gói giấy màu trắng, bên trong mỗi gói giấy màu trắng đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy được niêm phong trong một phong bì thư ghi chữ “QT Nguyễn Văn S”; 01 (một) điện thoại di động cũ đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đồng, số imei 3533220773140**, bên trong không gắn thẻ sim; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 màu xanh lam, cũ đã qua sử dụng, số imei 3520070449337**, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn đen tím, cũ đã qua sử dụng, có biển kiểm soát 12X1- 038.**; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S; 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn S do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang cấp ngày 23/10/2018; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 0044** do Công an huyện C1 cấp ngày 20/8/2013, biển số đăng ký 12X1-038.**.

Cùng ngày 06/12/2019, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn S tại khu G2, thị trấn Đ2, huyện C2, tỉnh Lạng Sơn thu giữ 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong gói giấy có chất bột màu trắng nghi là chất ma túy.

Tại Kết luận giám định số 15/KL-PC09 ngày 09/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 19 (mười chín) gói giấy thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Văn S đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,854 gam (đã trừ bì); chất bột màu trắng có trong 01 (một) gói giấy thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn S là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,026 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 31/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.

Bà Ngụy Thị T trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** là tài sản của bà giao cho Nguyễn Văn S để chạy xe ôm kiếm sống; bà không biết Nguyễn Văn S lấy xe đi mua ma túy. Bà Ngụy Thị T xin lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** và giấy chứng nhận đăng ký xe để sử dụng, ngoài ra không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đồng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 màu xanh lam, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân và 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn S. Trả lại cho bà Ngụy Thị T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn đen tím có biển kiểm soát 12X1- 038.** và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 06/12/2019 tại khu vực cửa khẩu C, xã T2, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng phối hợp với Đồn biên phòng T1 bắt quả tang Nguyễn Văn S có hành vi tàng trữ trái phép 0,854 gam ma túy Heroine, thu giữ khi khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn S 0,026 gam ma túy Heroine. Nguyễn Văn S tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã từng bị kết án về tội Cố ý gây thương tích và đã được xóa án tích. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2016, đang uống thuốc điều trị cai nghiện nhưng lại tiếp tục sử dụng ma túy, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 14/12/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định bao gồm: 0,625 gam Heroine được để trong một phong bì ghi chữ “QT Nguyễn Văn S” và 0,016 gam Heroine được để trong một phong bì ghi chữ “KX Nguyễn Văn S” và toàn bộ các vỏ bao gói là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng đồng, bên trong không gắn sim; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1202 màu xanh lam, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân và 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn S là tài sản, giấy tờ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** và giấy chứng nhận đăng ký xe, quá trình điều tra xác định là của bà Ngụy Thị T (mẹ bị cáo), bà Ngụy Thị T không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy để tàng trữ sử dụng, dó đó cần trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12X1- 038.** và giấy chứng nhận đăng ký xe cho bà Ngụy Thị T.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết họ tên và địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đã tiến hành tiến hành xác minh nhưng không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/12/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì thư ghi chữ “QT Nguyễn Văn S” (cũ); có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,625 gam Heroine và toàn bộ các vỏ bao gói.

- 01 (một) phong bì thư ghi chữ “KX Nguyễn Văn S” (cũ); có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,016 gam Heroine và toàn bộ các vỏ bao gói.

3.2. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn S:

- 01 (một) điện thoại di động cũ đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 6, màu vàng đồng, số imei 3533220773140**, bên trong không gắn thẻ sim;

- 01 (một) điện thoại di động cũ đã qua sử dụng, nhãn hiệu Nokia 1202 màu xanh lam, số imei 3520070449337**, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel;

- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn S;

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn S do Sở Giao thông vận tải tỉnh Bắc Giang cấp ngày 23/10/2018.

3.3. Trả lại cho bà Ngụy Thị T:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream, màu sơn đen tím, cũ đã qua sử dụng, có biển kiểm soát 12X1- 038.**;

- 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 0044** do Công an huyện C1, tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 20/8/2013, biển số đăng ký 12X1-038.**.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/4/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 29/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về