Bản án 27/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 27/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 24 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo;

Họ và tên: Đàm Văn P - Sinh ngày 21 tháng 01 năm 1973 tại xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ Tên gọi khác; không Nơi cư trú; khu 4, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ Nghề nghiệp; lao động tự do . Trình độ học vấn; lớp 11/12 Dân tộc; Kinh. Giới tính; Nam. Tôn giáo; Không. Quốc tịch; Việt Nam Con ông Đàm Văn C và bà Nguyễn Thị V (đều đã chết) Có vợ là Nguyễn Thị V, chưa có con Tiền án; không Tiền sự; Ngày 22/01/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Thanh Ba xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Mua trái phép pháo”. Đã nộp phạt ngày 22/01/2019.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/01/2020 đến ngày 07/5/2020 (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Chu Hải Nam H: Sinh năm 1967 Nơi cư trú : Khu 6, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 30 phút ngày 04/01/2020, tại đường Quốc lộ 2D, thuộc khu P, xã M, huyện Thanh Ba. Công an huyện Thanh Ba phối hợp với Công an xã Mạn Lạn phát hiện Đàm Văn P, trú tại khu 4, xã Đ, huyện Thanh Ba có biểu hiện tàng trữ chất ma túy nên tiến hành kiểm tra. Khi kiểm tra, P đã khai tên tuổi, địa chỉ của mình và khai nhận đang cất giấu ma túy ở trong người rồi tự giác lấy từ túi áo trong trước ngực bên trái áo phao đang mặc ra 04 gói nhỏ bằng giấy bên trong đều có chứa chất bột cục màu trắng và khai là 04 gói ma túy Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tổ công tác của Công an huyện Thanh Ba và Công an xã Mạn Lạn đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với P, thu giữ các vật chứng có liên quan gồm:

01 gói nhỏ bằng giấy mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên trong có chứa chất bột, cục màu trắng; 01 gói nhỏ bằng giấy màu trắng bạc hai mặt, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng; 02 gói nhỏ bằng giấy màu xám hai mặt, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng; 01 ống Novocain 3% chưa qua sử dụng; 01 bơm tiêm sử dụng một lần chưa qua sử dụng và một số đồ vật tài sản khác.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Ba quyết định trưng cầu giám định đối với 04 gói nhỏ bên trong có chứa chất bột cục màu trắng đã thu giữ của Đàm Văn P như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số 107/KLGĐ ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “Chất bột, cục màu trắng chứa trong 04 gói giấy nhỏ trong đó 01 gói có mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, 02 gói có màu xám ở cả hai mặt và 01 gói có màu trắng bạc ở cả hai mặt gửi đến giám định là ma túy, có tổng khối lượng là: 0,159 gam, loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục I, số thứ tự 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định: Trả lại 0,103 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được dán kín, niêm phong trong 01 bì giấy bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.” Tại Cơ quan điều tra, Đàm Văn P khai nhận như sau: Vào khoảng 16 giờ ngày 04/01/2020, P điều khiển xe môtô biển số 17F7 - 6716 đi đến khu vực ga V thuộc khu P, xã M, huyện T thì gặp bạn quen là Sái Trường G, trú tại khu 13 xã V, huyện H, tại đây G đưa cho P 400.000.đ và nói “Em không có xe anh cầm tiền đi mua ít hàng về anh em mình cùng chơi” (P hiểu ý G nói là cầm tiền đi mua ma túy về để cùng nhau sử dụng), P cầm tiền rồi một mình điều khiển xe môtô đi đến nhà Quách Mạnh H ở khu 1 xã M, huyện H để tìm Trần Duy H (tên thường gọi là N) ở cùng khu với H. Khi đến nhà H, P đứng ở ngoài gọi thì thấy N đi từ trong nhà ra đứng ở trên tầng hai nhà H, P hỏi N “Mày còn hàng không để cho tao bốn trăm” (ý P muốn hỏi mua của N 400.000.đ tiền ma túy Heroine), N đồng ý rồi thả một sợi dây đầu có buộc chiếc túi vải từ tầng hai xuống và bảo P để tiền vào đó rồi N kéo lên. Khi lấy được tiền thì N đi vào trong khoảng 05 phút rồi quay ra và ném về phía P 01 gói bằng giấy, P nhặt lên mở ra thấy bên trong có 04 gói nhỏ, tin tưởng đây là ma túy nên P cất giấu vào trong người rồi điều khiển xe môtô đi về. Trên đường về P vào một hiệu thuốc bên đường mua 01 bơm kim tiêm bằng nhựa và 01 ống nước cất (không nhớ tên cũng như địa chỉ của hiệu thuốc), khi đi về đến khu vực ngã ba đường rẽ từ Quốc lộ 2D vào ga V thuộc khu P, xã M, huyện T tìm G để cùng nhau sử dụng số ma túy vừa mua được thì bị Công an huyện Thanh Ba và Công an xã Mạn Lạn kiểm tra thu giữ toàn bộ 04 gói ma túy và lập biên bản vi phạm hành chính như đã nêu trên.

Ngoài lần mua ma túy trên, Đàm Văn P còn khai: Ngày 02/01/2020, tại khu vực bến đò thuộc khu Q, xã M, huyện T, P có mua 01 gói ma túy Heroine với số tiền 100.000.đ của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ sau đó đã tự sử dụng hết cho bản thân.

Cơ quan điều tra cũng triệu tập lấy lời khai, đối chất giữa Đàm Văn P với Trần Duy H, Sái Trường G nhưng G và P không thừa nhận việc đã đưa tiền và bán ma túy như P khai. Tuy nhiên, G thừa nhận ngày 03/01/2020 có sử dụng ma túy tại khu vực bến đò V thuộc xã M, còn H thừa nhận ngày 03/01/2020 có sử dụng ma túy tại nhà ở của mình thuộc khu 1, xã M, huyện H. Ngày 05 và ngày 07/01/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Ba yêu cầu Trung tâm y tế huyện Thanh Ba test ma túy đối với Đàm Văn P, Sái Trường G và Trần Duy H thì cả ba đều dương tính với chất ma túy dạng thuốc phiện Heroine, Morphin.

Bản Cáo trạng số 23/CT-VKS.TB ngày 27/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Đàm Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị với Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

+ Phạt bị cáo Đàm Văn P từ 18 đến 21 tháng tù;

+ Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị xử lý vật chứng, án phí của vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe Kiểm sát viên trình bày luận tội, bị cáo Phương hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội, việc bị truy tố, xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng, không oan. Bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Do bị nghiện chất ma túy nên chiều ngày 04/01/2020, Đàm Văn P mượn xe môtô biển số 17F7 - 6716 của ông Chu Hải Nam H đi mua 400.000.đ được 04 gói ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, P cất giấu trong người và trên đường về đã mua bơm tiêm nhựa, ống thuốc Novocain là dụng cụ dùng để sử dụng tiêm chích ma túy. Khi về đến khu P thuộc xã M, huyện T thì bị Cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện lập biên bản vi phạm, thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan. Theo kết luận giám định, thì 04 gói ma túy thu giữ của P có khối lượng là 0,159 gam, loại Heroine.

Ngoài lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, thì hành vi phạm tội còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác gồm: Biên bản vi phạm hành chính ngày 04/01/2020, các vật chứng đã thu giữ là 04 gói giấy bên trong có chứa chất ma túy Heroine, ống thuốc Novocain và bơm tiêm dùng để sử dụng ma túy, bản kết luận giám định về chất ma túy cùng với lời các khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng...Các tài liệu, chứng cứ và vật chứng đều hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, cũng phù hợp với các tình tiết sự kiện khác của vụ án và đều được thu thập, kiểm tra đánh giá đầy đủ, toàn diện khách quan đúng quy định của pháp luật. Như vậy, với hành vi cất giấu trong người 0,159 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích bán hoặc vận chuyển thì việc truy tố và xét xử Đàm Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng pháp luật. Điều luật quy định;

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[2]. Xét tính chất vụ án và tội phạm mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất an ninh, an toàn xã hội. Mặc dù bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại nguy hiểm của ma tuý đối với con người và xã hội, ma túy cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác, nhưng chỉ vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên đã cố ý phạm tội do vậy cần thiết phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục bị cáo.

[3]. Về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo không có tiền án nhưng đã bị xử phạt hành chính vẫn chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, mặc dù đây không phải là tình tiết tăng nặng nhưng cũng cần đánh giá về nhân thân khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thực sự thành khẩn, hối hận về hành vi phạm tội của mình cho nên Hội đồng xét xử có giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã nêu trên, thì hành vi phạm tội của bị cáo phải bị xử phạt tù, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo từ bỏ ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về với cộng đồng xã hội sẽ là một công dân tốt.

[4]. Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, thì bị cáo còn có thể bị phạt một khoản tiền để nộp ngân sách Nhà nước, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, nhưng xét bị cáo không có tài sản riêng, cũng không có nghề nghiệp nên không áp dụng.

[5]. Về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo và Sái Trường G, Công an huyện Thanh Ba đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính và cũng đã đề nghị Công an xã Minh Hạc, huyện Hạ Hòa xử lý Trần Duy H về hành vi sử dụng trái phép ma túy theo quy định của pháp luật.

- Về nguồn gốc số ma túy mà cáo tàng trữ, bị cáo khai mua của Trần Duy H và tiền để mua ma túy là của Sái Trường G đưa, nhưng kết quả điều tra không có đủ chứng cứ để chứng minh G và H đã có hành vi như bị cáo khai nên trong vụ án này không có căn cứ để xử lý đối với G và H.

[6]. Vật chứng của vụ án được xử lý như sau:

- Đối với chiếc điện thoại di động Nokia 216 lắp hai sim số 0975.701.902 và 0819.426.806; 01 chiếc ví giả da màu nâu là những tài sản hợp pháp của bị cáo Đàm Văn P, xét không liên quan tội phạm nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án;

- Đối với 01 chiếc xe môtô kiểu dáng Honda Dream biển số 17F7 - 6716 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Chu Hải Nam H, khi cho mượn không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, chiếc xe môtô này cũng không liên quan đến hành vi phạm tội nào khác vì vậy trả lại cho ông H;

- Các vật chứng còn lại gồm: 01 bì giấy bên trong là chất ma túy do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ hoàn trả lại sau khi đã giám định cùng với 01 chiếc bơm tiêm, 01 ống Novocain phải tịch thu để tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo Đàm Văn P phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Tại phiên tòa, sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên đã trình bày luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử kết tội bị cáo như Cáo trạng đã truy tố, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo và đề xuất về xử lý vật chứng. Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9]. Căn cứ vào diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận: Trong quá trình điều tra, truy tố, các quyết định và hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra đều phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án, phù hợp với diễn biến tại phiên tòa và có đầy đủ cơ sở để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đàm Văn P 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo P chấp hành án.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau: 01 bì giấy số 107/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ, mặt trước có ghi “Hoàn lại 0,103 gam chất bột, cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi giám định trong vụ Đàm Văn P có hành vi phạm tội về chất ma túy”, mặt sau có 04 loại chữ ký và 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ tại các mép dán; 01 chiếc bơm tiêm sử dụng một lần Vinahankook loại 3ml/cc (chưa qua sử dụng) và 01 ống Novocain 3% do Công ty Cổ phần dược phẩm Vĩnh Phúc sản xuất (chưa qua sử dụng).

+ Trả lại cho bị cáo Đàm Văn P 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen (đã cũ), số Imel 1: 357344086016897, số Imel 2: 357344089496898, bên trong có lắp 02 sim số 0975.701.902 và số 0819.426.806 cùng với 01 chiếc ví giả da màu nâu (đã cũ), dạng ví gấp mặt ngoài ví có dòng chữ “thuận buồm xuôi gió” nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án;

+ Trả lại cho ông Chu Hải N H 01 chiếc xe môtô kiểu dáng Honda Dream II, màu sơn nâu (đã cũ), số khung DU10D200172079, số máy EC150FMG01223979, xe mang biển số 17F7 - 6716.

(Toàn bộ những vật chứng và đồ vật trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba và có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/4/2020 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Ba với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba có lưu trong hồ sơ vụ án).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12//2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Bị cáo Đàm Văn P phải nộp 200.000.đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Ba - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về