Bản án 27/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN K, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 27/2019/HSST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận K, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 747/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức H, sinh ngày 02/02/1991; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; nơi sinh: H; nơi cư trú: số nhà 11/33 Hoàng Thiết T, Tổ 6, phường Bắc S, quận K, thành phố H; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; con ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1962 (đã chết); con bà Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1964; gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự, nhân thân: 01 tiền sự và 01 tiền án (đã được xóa): Ngày 16/5/2006, H bị đưa vào trường giáo dưỡng số 2 (Ninh Bình) theo Quyết định số 915/QĐ-UBND ngày 11/5/2006 của Chủ tịch UBND quận K, thành phố H về hành vi vi phạm pháp luật: Gây rối trật tự công cộng, Cố ý gây thương tích. Ngày 01/02/2008, H chấp hành xong. Ngày 30/7/2009, H bị Tòa án nhân dân huyện A xử phạt 36 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 18/01/2012 chấp hành xong hình phạt tù, được miễn án phí và chấp hành xong khoản tiền phạt. Bị cáo Nguyễn Đức H bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 04/5/2019 đến ngày 07/5/2019 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam - Công an thành phố H. (Có mặt).

- Người làm chứng: Nguyễn Thị H (Vắng mặt)

- Người chứng kiến: Đinh Văn L (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 14 giờ 13 phút, ngày 04/5/2019, tại quán nước ở gầm Cầu N thuộc tổ 8, phường Lãm H, quận K, thành phố H, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an quận K bắt quả tang Nguyễn Đức H đang có hành vi tàng trữ các viên nén màu hồng nghi là ma túy. Tang vật thu giữ gồm: Thu tại lòng bàn tay trái của H 01 gói giấy báo bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước 11x7cm, bên trong túi nilon có chứa 50 viên nén màu hồng hình hộp chữ nhật, kích thước 0,5x0,5x1cm, trên viên nén một mặt có chữ SUPREME, một mặt có chữ CP. Ngoài ra, cơ quan Công an còn thu giữ của H: 01 điện thoại SAMSUNG, 01 ví da màu đen, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H và số tiền 2.215.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 191/KQGĐ(Đ6) ngày 06/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H: “Mẫu viên nén gửi giám định là ma túy, có khối lượng 30,2619 gam, là loại MDMA” Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức H quá trình khám xét thu giữ: 01 cân tiểu ly điện tử; 02 ống hút nhựa màu đen dài 6cm, một đầu vát nhọn và một số túi nilon bên trong không chứa gì.

Tại Cơ quan điều tra H khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 04/5/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên H đã đi xe ôm của một người đàn ông không quen biết sang khu vực đường tàu Trần Nguyên H, quận Lê Ch, thành phố H mua 50 viên thuốc lắc (dạng viên nén màu hồng kích thước 0,5x 0,5x1 cm một mặt có chữ Superme, một mặt có chữ C/P) đựng trong 01 túi nilon kích thước 11x 7cm và được gói bên ngoài bằng giấy báo với giá 200.000 đồng/ 01 viên của một người đàn ông không quen biết. Sau khi kiểm tra, đếm lại số lượng ma túy H trả cho người đàn ông bán ma túy 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) rồi đi xe ôm về khu vực gầm cầu N thuộc tổ 8, phường Lãm H, quận K, thành phố H ngồi uống nước thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên.

Ngày 07/5/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận K ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bản Cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 03/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận K, thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận K, thành phố H vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt Nguyễn Đức H từ 11 đến 12 năm tù. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249, khoản 2 Điều 35 Bộ luật Hình sự, phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Đức H với mức phạt từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Xử lý vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy của vụ án còn lại sau giám định, vỏ bao bì của mẫu vật được niêm phong trong một bì thư theo niêm phong số 191/2019/PC09 Công an thành phố H, 01 cân tiểu ly, 02 ống nhựa dài 06 cm, 01 túi nilon màu hồng, 20 túi nilon kích thước 10x18cm và 20 túi nilon kích thước 5x7 cm. Trả lại Nguyễn Đức H: 01 điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung đã qua sử dụng vỏ màu hồng, 01 ví da màu đen, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H, số tiền 2.215.000 đồng nhưng cần tạm giữ điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung và số tiền 2.215.000 đồng của Nguyễn Đức H để đảm bảo thi hành án; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu. Bị cáo thống nhất với quan điểm luận tội của Viện Kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là trái pháp luật, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận K thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận K thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người làm chứng là Nguyễn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Xét thấy quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai của người làm chứng, nên việc vắng mặt người làm chứng không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, chủ tọa phiên tòa công bố lời khai trong quá trình điều tra của người làm chứng vắng mặt.

- Về tội danh:

[ 3 ] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Đức H có hành vi cất giữ trái phép 30,2619 gam ma túy, loại MDMA, không nhằm mục đích bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của Nguyễn Đức H đã vi phạm Điều 249 Bộ luật Hình sự, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Với hành vi tàng trữ trái phép 30,2619 gam ma túy, loại MDMA, Nguyễn Đức H đã vi phạm điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy ……

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:...

b) ..., MDMA,... có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;...”.

Như vậy, Viện Kiểm sát nhân dân quận K đã truy tố Nguyễn Đức H ra trước Toà án nhân dân quận K để xét xử về tội danh theo điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Nguyễn Đức H có 01 tiền sự và 01 tiền án mặc dù đã được xóa nhưng chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu. Việc áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với một mức án nghiêm khắc và cần thiết tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4] Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, nó trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước; ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã giữ độc quyền và thống nhất quản lý chất ma túy với những quy định nghiêm ngặt bởi chất ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm; vi phạm quy định về quản lý chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn tạo ra lớp người nghiện, qua đó đe dọa nghiêm trọng đến an toàn xã hội, trật tự công cộng, sức khỏe và sự phát triển bình thường của giống nòi Việt Nam. Vì vậy pháp luật yêu cầu phải xử lý nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

[5] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đức H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đức H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...”. Cần áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Đức Hoàng để thể hiện rõ sự nghiêm minh của pháp luật

[8] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Đức H tại khu vực đường tàu Trần Nguyễn H trưa ngày 04/5/2019 và người đàn ông lái xe ôm chở H đi mua ma túy do chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận K tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

- Vật chứng của vụ án:

[9] Vật chứng của vụ án gồm: Số ma túy thu giữ của Nguyễn Đức H, vỏ bao bì của mẫu vật được niêm phong trong một bì thư theo niêm phong số 191/2019/PC09, CATP Hải Phòng; 01 điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung đã qua sử dụng vỏ màu hồng; 01 ví da màu đen; 01 cân tiểu ly; 02 ống nhựa dài 06 cm có một đầu vát nhọn; 01 túi nilon màu hồng bên trong chứa 20 túi nilon kích thước 10x18cm và 20 túi nilon kích thước 5x7 cm bên trong đều không chứa gì; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H; số tiền 2.215.000 đồng.

[10] Đối với số ma túy thu giữ của H còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Đối với vỏ bao bì của mẫu vật, 01 cân tiểu ly, 02 ống nhựa dài 06 cm, 01 túi nilon màu hồng, 20 túi nilon kích thước 10x18cm, 20 túi nilon kích thước 5x7 cm không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[12] Đối với 01 điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung đã qua sử dụng vỏ màu hồng, 01 ví da màu đen, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H, số tiền 2.215.000 đồng không liên quan đến vụ án trả lại cho Nguyễn Đức Hoàng nhưng cần tạm giữ điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung và số tiền 2.215.000 đồng của Nguyễn Đức H để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí:

[13] Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 12 (Mười hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 04/5/2019.

Về Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Đức H 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) để sung quỹ nhà nước.

Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy của vụ án còn lại sau giám định và vỏ bao bì của mẫu vật được niêm phong trong một bì thư theo niêm phong số 191/2019/PC09 Công an thành phố H, 01 cân tiểu ly, 02 ống nhựa dài 06 cm, 01 túi nilon màu hồng, 20 túi nilon kích thước 10x18cm và 20 túi nilon kích thước 5x7 cm. Trả lại Nguyễn Đức H: 01 điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung đã qua sử dụng vỏ màu hồng, 01 ví da màu đen, 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Đức H, số tiền 2.215.000 đồng nhưng cần tạm giữ điện thoại cảm ứng nhãn hiệu Samsung và số tiền 2.215.000 đồng của Nguyễn Đức H để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Nguyễn Đức H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HSST ngày 02/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về