Bản án 27/2019/HS-ST ngày 01/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B

BẢN ÁN 27/2019/HS-ST NGÀY 01/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 01 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 1 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét  xử số: 20 /2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 1 năm 2019 đối với bị cáo:

- Họ tên: Phạm Hùng S, sinh năm 1977;

- Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không;

- Nơi ĐKHKTT: phòng 403, khu tập thể B4, phường G, quận B, thành phố H;

- Chỗ ở hiện nay: thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B;

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hoá: 7/12; Con ông: Phạm Xuân K, sinh năm 1939; Con bà: Nguyễn Thị B, sinh năm 1948; Gia đình có 03 anh em, bị can là con thứ ba; Vợ, con: Chưa có;

- Tiền sự: Chưa.

- Tiền án: Bản án số 10/HSST ngày 21/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B xử phạt Phạm Hùng S 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2016 (chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/2/2018, chấp hành xong án phí ngày 20/4/2017).

- Nhân thân:

+ Bản án số 699/HSPT ngày 22/5/1996 của Tòa án nhân dân tối cao xử phạt Phạm Hùng S 5 năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân".

+ Bản án số 813/HSPT ngày 13/6/1996 của Tòa án nhân dân tối cao xử phạt Phạm Hùng S 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân”. Tổng hợp hình phạt với bản án 699 ngày 22/5/1996 của Tòa án nhân dân tối cao buộc S chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 8 năm tù.

+ Bản án số 224/HSST ngày 10/12/2010 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt Phạm Hùng S 3 năm tù về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời gian tù tính từ ngày 21/8/2010, phạt bổ sung 5.000.000 đồng (Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/8/2013, chấp hành xong hình phạt bổ sung ngày 08/4/2011).

+ Quyết định số 1446/ QĐ-UB ngày 14/9/2004 của Ủy ban nhân dân quận B, thành phố H về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Phạm Hùng S vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 19/11/2018, tạm giữ từ ngày 20/11/2018, chuyển tạm giam ngày 24/11/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh B. (Có mặt tại phiên tòa)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị B - sinh năm 1948 (vắng mặt)

Trú tại: Thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B

- Anh Hà Văn P - sinh năm 1968

Trú tại: Thôn Hấn, xã H, huyện Y, tỉnh B.

* Người làm chứng:

- Ông Ngô Hữu T, sinh năm 1963. (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ dân phố số 1, M, TP. B, tỉnh B.

- Ông Nguyễn Văn Pc, sinh năm 1953.(Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ dân phố số 1, M, TP. B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 45 phút ngày 19/11/2018 tại khu vực trước cửa số nhà 158, đường M, phường M, thành phố B, tỉnh B, tổ công tác đặc biệt 198 Công an thành phố B bắt quảtang Phạm Hùng S, sinh năm 1977, nơi ĐKHKTT:  Phòng 403, khu tập thể B4, phường G, quận B, thành phố H; Chỗ ở hiện nay: thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ, bên trong đựng 07 gói giấy bạc, trong đó có 06 gói giấy bạc đều có hai mặt màu trắng bạc, bên trong mỗi gói đều đựng chất cục bột màu hồng đỏ nghi là ma túy tổng hợp dạng “ngựa”; 01 gói giấy bạc có mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng, bên trong đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy Heroine; 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng “đá”. Tất cả thu giữ trong hộp nhựa màu đỏ.

- 02 gói giấy bạc đều có hai mặt màu trắng bạc, bên trong mỗi gói đều đựng chất cục bột màu trắng nghi là ma túy Heroine; 01 túi nilon mầu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu xanh, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng “đá”; 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu xanh, bên trong đựng 02 túi nilon mầu trắng đều có rãnh khóa nhựa và viền màu xanh, bên trong mỗi túi đều đựng chất bột màu hồng đỏ nghi là ma túy tổng hợp dạng “ngựa”. Tất cả thu giữ trong 01 ống bằng kim loại hình trụ tròn có nắp đậy.

Tất cả số vật chứng trên được thu giữ trong túi vải mầu đỏ đen của Phạm Hùng S đeo trên người khi bị bắt và được niêm phong trong 01 phong bì thư dán kín.

Ngoài ra còn tạm giữ của S: 01 xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR màu nâu BKS 98F8-1818; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy S5 màu vàng; 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone màu ghi đen đều đã qua sử dụng và số tiền 4.732.000 đồng (Bút lục số 55 đến 59).

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Hùng S, quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Kết luận giám định số 1578/KL-KTHS ngày 23/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

- Trong 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ:

+ Chất cục bột màu hồng đỏ đựng trong 06 gói giấy bạc mặt ngoài và mặt trong đều màu trắng bạc đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,134 gam.

+ Chất cục bột màu trắng đựng trong 01 gói giấy bạc mặt ngoài màu trắng, mặt trong màu vàng là chất ma túy Heroine, có khối lượng: 0,027 gam.

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng: 0,083 gam.

- Chất cục bột màu trắng đựng trong 02 gói giấy bạc đều có hai mặt màu trắng bạc đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng: 0,450 gam.

- Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu xanh là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng: 0,364 gam.

- Trong 01 túi ni lon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu xanh: Chất bột mầu hồng đỏ đựng trong 02 túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu xanh đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,072 gam

Quá trình điều tra, Phạm Hùng S khai nhận như sau: Khoảng 23 giờ ngày 19/11/2018 S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98F8-1818 đi từ thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B lên khu vực bờ đê Chi Ly 1, phường M, thành phố B để mua ma túy sử dụng. Đến nơi, S vào một nhà không quen biết và hỏi mua qua ô cửa của nhà đó được 800.000 đồng tiền ma túy Heroine và ma túy tổng hợp. S để số ma túy vừa mua được vào trong 01 ống bằng kim loại hình trụ có nắp đậy và 01 hộp nhựa mầu đỏ rồi để trong túi vải mầu đỏ đen đeo trên người. Sau đó, S điều khiển xe mô tô đi về, khi đi đến trước cửa số nhà 198, đường M, phường M thì bị lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy

Người bán ma tuý cho S do S khai không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xử lý.

Đối với số tiền 4.732.000 đồng tạm giữ của S, Cơ quan điều tra xác định số tiền trên là của bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1948, trú tại thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B (mẹ đẻ của S). Ngày 19/11/2018, bà B đưa cho S số tiền 6.000.000 đồng để S đi mua xe máy về phục vụ sinh hoạt gia đình nhưng S chưa mua xe mà chi tiêu cá nhân và sử dụng 800.000 đồng để mua ma túy, sau đó S bị bắt và bị tạm giữ số tiền còn lại như trên. Bà B không biết S sử dụng số tiền bà đưa cho để đi mua ma túy và có đơn đề nghị xin lại số tiền 4.732.000 đồng. Ngày 29/11/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại bà B số tiền trên.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR màu nâu BKS 98F8-1818, S khai mượn của anh Hà Văn P, sinh năm 1968, trú tại thôn Hấn, xã H, huyện Y, tỉnh B. Anh P khai mua lại chiếc xe trên của một người không quen biết, không phải chính chủ xe mà chỉ có đăng ký xe mang tên Cao Hùng Hải ở M, Minh Khai, B, khi mua bán chỉ thỏa thuận miệng không làm giấy tờ mua bán. Anh P chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ và trong quá trình sử dụng, lốc máy của xe bị hỏng, anh P đã lắp lốc máy khác để đi tạm. Khoảng ngày 10/11/2018, anh P cho S mượn chiếc xe để đi lại, không biết S sử dụng để đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã xác minh chiếc xe này không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng, số khung số máy không bị hàn ghép, đóng đục lại. Hiện nay chủ đăng ký xe là anh Hải không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai của anh Hải. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã ra quyết định nhập kho vật chứng chiếc xe trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR màu nâu BKS 98F8-1818; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy S5 màu vàng; 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone màu ghi đen đều đã qua sử dụng; 01 hộp nhựa màu đỏ; 01 ống kim loại hình trụ tròn có nắp đậy; 01 túi vải màu đỏ đen được nhập kho vật chứng để xử lý.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 26 tháng 1 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phạm Hùng S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Hùng S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Hùng S từ 2 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều điểm c khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 hộp nhựa màu đỏ; 01 ống kim loại hình trụ tròn có nắp đậy; 01 túi vải màu đỏ đen

Trả lại anh Hà Văn P 01 xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR màu nâu BKS 98F8- 1818;

Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy S5 màu vàng; 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone màu ghi đen đều đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo nhận tội và không có tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 23 giờ 45 phút ngày 19/11/2018 tại khu vực trước cửa số nhà 158, đường M, phường M, thành phố B, tỉnh B, tổ công tác đặc biệt 198 Công an thành phố B bắt quả tang Phạm Hùng S sinh năm 1977, nơi ĐKHKTT: Phòng 403, khu tập thể B4, phường G, quận B, thành phố H; Chỗ ở hiện nay: thôn D, xã H, huyện Y, tỉnh B có hành vi tàng trữ trái phép 0,653 gam chất ma tuý Methamphetamine và 0,477 gam chất ma túy Heroine để sử dụng.

Như vậy, bị cáo có hành vi cất giấu ma túy trong người một cách bất hợp pháp để sử dụng, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự xã hội, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, bị xã hội lên án. Hành vi của bị cáo là nguyên nhân kéo theo nhiều tội phạm nguy hiểm khác như nghiện hút,trộm cắp tài sản, cướp tài sản,....làm ảnh hưởng kinh tế. Là căn nguyên của căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS...là nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến hạnh Pc gia đình, an toàn trật tự công cộng của xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do vậy, cần xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội này.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án, năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh B xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án do vậy bị cáo phải chịu tình tiết nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 BLHS

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Xét về nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xét xử hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 02 lần về hành vi chiếm đoạt tài sản và một lần bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa cho bản thân, do vậy cần phải có mức án nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, biết tuân thủ pháp luật. 

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiệm ma túy, không có công ăn việc làm, không có điều kiện kinh tế để đảm bảo thi hành án nên miễn áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Số tiền 4.732.000 đồng tạm giữ của S là của bà Nguyễn Thị B, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại bà B số tiền trên là có căn cứ

[9] Về vật chứng của vụ án:

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR màu nâu BKS 98F8-1818 là của Hà Văn P đăng ký xe mang tên Cao Hùng Hải ở M, Minh Khai, B, do P mua không làm giấy tờ mua bán. Anh P cho S mượn chiếc xe để đi lại, không biết S sử dụng để đi mua ma túy. Do vậy cần trả lại cho anh P

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 hộp nhựa màu đỏ; 01 ống kim loại hình trụ tròn có nắp đậy; 01 túi vải màu đỏ đen

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy S5 màu vàng; 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone màu ghi đen đều đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Phạm Hùng S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Về hình phạt: Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Hùng S 02 (hai) năm tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 20/11/2018

2- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại anh Hà Văn P 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu VECSTAR màu nâu BKS 98F8- 1818

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 hộp nhựa màu đỏ; 01 ống kim loại hình trụ tròn có nắp đậy; 01 túi vải màu đỏ đen

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy S5 màu vàng; 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone màu ghi đen đều đã qua sử dụng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

3- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4- Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2019/HS-ST ngày 01/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về