Bản án 27/2018/HS-ST ngày 20/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 27/2018/HS-ST NGÀY 20/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2018/TLST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 30/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Quang T (tên gọi khác: K), sinh năm 1983, tại Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp L, xã B, huyện H, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang P (đã chết) và bà Nguyễn Thị C (đã chết); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không có; tiền sự: Không có; nhân thân: Tốt; bị cáo bị tạm giữ ngày 28/12/2017, chuyển sang tạm giam từ ngày 03/01/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ ngày 28/12/2017, tại tiệm hớt tóc Kim Khánh thuộc ấp L, xã B, huyện H, tỉnh Tây Ninh, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Lê Quang T đang bán cho Trần Việt H, sinh năm 1993, ngụ ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh Tây Ninh một gói ma túy đá với giá 300.000 đồng. Thu giữ của H một gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong kí hiệu M1; thu giữ của T 300.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Viettel, 01 điện thoại di động hiệu Oppo. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T thu giữ một gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, được niêm phong kí hiệu M2, một cân điện tử, 20.000.000 đồng và một xe mô tô biển số 70G1-389.03.

Qua điều tra đã chứng minh được từ tháng 11/2017 Lê Quang T đã nhiều lần mua ma túy của người đàn ông tên Thành, không rõ nhân thân, địa chỉ, mỗi lần mua từ 3.500.000 đồng đến 6.500.000 đồng đem về phân ra thành nhiều gói nhỏ bán lại cho người khác sử dụng. Tính đến ngày bị bắt, T đã bán ma túy cho Đỗ Hồng P 01 lần, Trần Việt H 02 lần, cụ thể:

Ngày 21/12/2017, bán cho Đỗ Hồng P, sinh năm 1990, ngụ ấp T, xã H, huyện H, tỉnh Tây Ninh một gói ma túy đá giá 200.000 đồng.

Ngày 24/12/2017, bán cho Trần Việt H một gói ma túy đá giá 200.000 đồng, đến ngày 28/12/2017 tiếp tục bán ma túy cho H giá 300.000 đồng tại tiệm hớt tóc Kim Khánh thì bị bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số 253/MT-2017 ngày 31/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng trong suốt bên trong 01 (một) gói nylon màu trắng được hàn kín (kí hiệu M1) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; khối lượng 0,0790 gam.

Mẫu chất tinh thể màu trắng trong suốt bên trong 01 (một) gói nylon màu trắng được dán kín (kí hiệu M2) gửi đến giám định là chất ma túy; Là loại Methamphetamine; khối lượng 10,2134 gam. 

Sau khi bị bắt, Lê Quang T đã khai rõ hành vi phạm tội.

Đối với Trần Việt H, Đỗ Hồng P có hành vi sử dụng ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tây Ninh đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người 750.000 đồng là có căn cứ.

Hiện tại, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác định được người thanh niên tên Thành bán ma túy cho T, khi nào làm rõ xử lý sau.

Qua xác minh, Lê Quang T có đăng ký đứng tên quyền sử dụng đất tại ấp L, xã B, huyện H, tỉnh Tây Ninh nhưng đã thế chấp vay Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam, chi nhánh Tây Ninh số tiền 450.000.000 đồng nên không kê biên.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như cáo trạng đã truy tố.

Tại Cáo trạng số: 22/CT-VKSND-HT ngày 28 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Lê Quang T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Quang T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Quang T mức án từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong vụ số 253/1 và 253/2, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tây Ninh; 01 cân điện tử. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước tiền Việt Nam 300.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Viettel. Trả lại cho bị cáo Lê Quang T tiền Việt Nam 20.000.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 01 xe mô tô biển kiểm soát 70G1-389.03.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về đoàn tụ với gia đình và bị cáo hứa khi ra tù sẽ không tái phạm, bị cáo sẽ tìm công việc lương thiện để làm, sống có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do dó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời nhận tội của bị cáo T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, tang vật vụ án cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Ngày 21/12/2017, bị cáo Lê Quang T bán cho Đỗ Hồng P một gói ma túy đá giá 200.000 đồng. Ngày 24/12/2017, bị cáo T bán cho Trần Việt H một gói ma túy đá giá 200.000 đồng. Ngày 28/12/2017, tại tiệm hớt tóc Kim Khánh thuộc ấp L, xã B, huyện H, tỉnh Tây Ninh, bị cáo T tiếp tục bán một gói ma túy đá cho Trần Việt H giá 300.000 đồng thì bị bắt quả tang. Ngoài một gói ma túy Cơ quan điều tra thu giữ khi bắt quả tang bị cáo T đang bán cho H thì qua khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo còn thu giữ của bị cáo một gói nylon hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, qua giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo là 10,2924 gam. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành truy tố bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung là “Phạm tội nhiều lần” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Bị cáo vẫn biết ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, việc sử dụng chất ma túy là nguy hiểm sẽ dẫn đến việc lây nhiễm H V và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo ý thức được hành vi mua bán ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải có một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Do đó, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Thành đề nghị là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo khai nhận mua bán ma túy để kiếm lời và hiện tại bị cáo có tài sản nên ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền sung vào ngân sách nhà nước để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy chất ma túy và tài sản không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước tiền Việt Nam 300.000 đồng là tiền bị cáo T bán trái phép chất ma túy có được; 01 (một) điện thoại di động màu đen, có chữ Viettel của bị cáo T sử dụng để liên lạc trong việc mua bán trái phép chất ma túy.

- Trả lại cho bị cáo T các tài sản không liên quan đến việc phạm tội.

 [7] Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quang T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 194; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Quang T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 28/12/2017.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) sung vào ngân sách nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói niêm phong vụ số 253/1 và 253/2, có chữ ký của giám định viên Nguyễn Văn Nguyện và Võ Quốc Thái, có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tây Ninh; 01 (một) cân điện tử, trên mặt có ghi 1*CR2032 Battery CE, đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: Tiền Việt Nam 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng); 01 (một) điện thoại di động màu đen, có chữ Viettel, số IMEIL 351580072929827, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Quang T: Tiền Việt Nam 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); 01 (một) điện thoại di động màu trắng, hiệu Oppo, số IMEIL 863886032164830, đã qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô màu đỏ, biển kiểm soát 70G1-389.03, số máy JF51E-0226219, số khung: không kiểm tra ban đầu thu (qua kiểm tra thực tế khi giao nhận có số khung: RLHJF5112FY015181), đã qua sử dụng.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lê Quang T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 27/2018/HS-ST ngày 20/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:27/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về