Bản án 270/2019/HS-PT ngày 12/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 270/2019/HS-PT NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 174/2019/TLPT-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo Danh S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2019/HSST ngày 22/03/2019 của Tòa án nhân dân quận 2.

- Bị cáo có kháng cáo: Danh S, sinh năm 1996 tại tỉnh Kiên Giang; thường trú: Ấp A, xã E, huyện G, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: khu phố I, phường L, thị xã M, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 05/12; giới tính: Nam; dân tộc: Khơ-me; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh B và bà Thị T; có vợ là: Chị Phạm Thị K; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 26/10/2018 (có mặt).

- Các bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Ngoài ra còn có 03 (ba) bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị:

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Huỳnh Khắc T, Luật sư (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 ngày 25/10/2018, Danh S rủ Danh R đến phòng trọ của hai anh em Danh H và Danh Y tại thị xã M, tỉnh Bình Dương để nhậu. Trong lúc cả nhóm đang ngồi nhậu thì S rủ R, H, Y đến công trình xây dựng tại Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh-nơi S đang làm việc lấy trộm dây điện để bán lấy tiền tiêu xài thì cả nhóm đồng ý. Đến khoảng 0 giờ ngày 26/10/2018, 04 bị cáo điều khiển xe mô tô loại Wave Trung Quốc màu đen biển số 68T9-8528 và xe mô tô hiệu Suzuki Axelo màu trắng-xanh-đen biển số 68E1-288.56 đến Công trình xây dựng C nằm trên đường O, khu phố P, phường Q, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đến gần công trình xây dựng, R và Y đứng ngoài canh chừng xe và cảnh giới còn S và H đi bộ vào trong tầng trệt của công trình. Tới nơi S, H mở cửa phụ (do cửa không khóa) đi vào tầng trệt của công trình. S lấy giàn giáo có sẵn tại kho kê vào vách tôn nhà kho rồi leo lên bẻ một lỗ vách tôn của nhà kho, chui vào trong kho là nơi để tài sản của Công ty Trách nhiệm hữu hạn T đang thi công hệ thống phòng cháy chữa cháy tại tầng trệt của công trình C. Trong lúc S chui vào kho thì H đi bộ ra ngoài cảnh giới để R vào kho lấy đồ cùng S. Khi S vào trong kho thì lấy 01 cuộn dây cáp điện và 03 máy khoan đưa ra ngoài cho R đang chờ sẵn. Sau khi lấy xong số tài sản nêu trên thì S ra lại bằng đường trước đó mình đã đột nhập vào.

Sau đó R điều khiển xe chở Y cầm 03 máy khoan còn S chở H cùng cuộn dây điện đi về thị xã M, tỉnh Bình Dương. Khi cả nhóm điều khiển xe tới khu vực ngã tư U thuộc địa bàn Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị lực lượng tuần tra Công an Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện, bắt giữ cùng tang vật. Quá trình điều tra thì S, H, R và Y đã khai nhận toàn bộ số tài sản trên là tài sản mà các bị cáo vừa trộm cắp tại địa bàn Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh đồng thời chỉ điểm nơi gây án. Do vụ việc xảy ra tại địa bàn Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh nên Công an Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển hồ sơ vụ việc cùng các bị cáo tới Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan điều tra, S, H, R và Y đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Vật chứng thu giữ: 01 cuộn dây cáp điện chưa qua sử dụng dài khoảng 38m, đường kính 03 cm, vỏ ngoài màu đen bên trong có lõi nhỏ kim loại màu vàng đồng; 03 máy khoan điện cầm tay, trong đó 02 máy hiệu BOSCH màu xanh 01 máy hiệu FEG màu xanh (đã qua sử dụng); 01 xe mô tô biển số 68T9-8528, 01 xe mô tô biển số 68E1-288.56.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 354/HĐĐGTS-TCKH ngày 13 tháng 11 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân Quận N kết luận:

- 01 cuộn dây cáp điện dài khoảng 35m, đường kính khoảng 03 cm, vỏ ngoài màu đen bên trong có lõi nhỏ kim loại màu vàng đồng, tình trạng còn tương đối mới, có ghi chữ THIPHA CABLE 2018 01 x 2000mm2 06/1ky 60502-12009 có giá 10.500.000 đ;

- 03 máy khoan điện, trong đó có 02 máy hiệu Bosch màu xanh dương, 01 máy hiệu FEG màu xanh lá cây, tình trạng đã qua sử dụng có giá 900.000 đ.

Tất cả số tài sản trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lại cho bị hại.

Đối với 01 xe mô tô biển số 68T9-8528, hiệu Kitafu (loại Wave Trung Quốc), số khung: PE6A*003206*, số máy: MH-3*0032006*, màu đen đã qua sử dụng. Qua xác minh được biết chiếc xe trên do anh Huỳnh Thanh D, trú tại ấp X, xã Đ, huyện B, tỉnh Kiên Giang là người đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Sau đó anh D bán lại chiếc xe trên cho anh Huỳnh Thành B, trú tại ấp C, xã D, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Quá trình sử dụng anh B bán chiếc xe trên cho bị cáo R, có làm giấy tờ mua bán nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Xét thấy do bị cáo R là người dân tộc thiểu số, nhận thức còn hạn chế; tiền mua xe do cha mẹ cho nên bị cáo Rít đã ủy quyền cho bị can Y nhận lại chiếc xe trên và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 trả lại chiếc xe trên cho bị cáo Y.

Đối với 01 xe mô tô biển số 68E1-288.56, hiệu Suzuki Axelo, số khung: 4510G0142575, số máy: F4CB142129 màu trắng-xanh - đen đã qua sử dụng. Qua xác minh được biết xe này do bị cáo Y đứng tên đăng ký chủ sở hữu nhưng cha mẹ bị cáo là người bỏ tiền ra mua và cho bị cáo sử dụng. Do bị cáo Y phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, là người dân tộc thiểu số nên trình độ nhận thức còn hạn chế nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2 đã trả lại chiếc xe trên cho bị cáo.

Quá trình điều tra, do gia đình bị cáo Y làm giấy khai sinh cho bị cáo trễ hạn luật định. Cơ quan điều tra đã tiến hành thu thập giấy chứng sinh của bị cáo nhưng không thu thập được nên đã ra quyết định trưng cầu giám định độ tuổi đối với bị cáo. Theo bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 51/ĐT.18 ngày 18 tháng 12 năm 2018 của Trung tâm Pháp y-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tại thời điểm ngày 26/10/2018 (thời điểm bị can thực hiện hành vi phạm tội) Y đã trên 17 tuổi 06 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T đã giao cho anh Bạch Văn T là chỉ huy trưởng công trình chịu trách nhiệm trong việc mất tài sản vật tư trong quá trình thi công. Do tài sản đã được thu hồi, người đại diện hợp pháp của bị hại là anh Bạch Văn T không có yêu cầu bồi thường về phần dân sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2019/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2019, Tòa án nhân dân quận 2 quyết định:

Tuyên bố bị cáo Danh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Danh S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2018.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 03 bị cáo khác; duy trì biện pháp ngăn chặn; án phí sơ thẩm; quyền kháng cáo và việc thi hành án.

Ngày 03/4/2019, bị cáo Danh S kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Kiểm sát viên phát biểu: Đơn kháng cáo của bị cáo Danh S còn trong thời hạn luật định. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác và trật tự an toàn xã hội. Bị cáo S phạm tội thuộc trường hợp có đồng phạm, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 11.400.000 đ. Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sảm” theo quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo S là người rủ rê, xúi giục các bị cáo khác phạm tội trong đó có bị cáo Danh Y là người dưới 18 tuổi nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; gây thiệt hại không lớn nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tiền tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h, i, s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm o, Khoản 1, Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017, xử phạt bị cáo S 09 tháng tù là đúng quy định pháp luật, không nặng. Bị cáo S kháng cáo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo-ông Huỳnh Khắc T trình bày: Bị cáo Danh S có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017: Gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, bị cáo là người dân tộc thiểu số, có trình độ văn hóa thấp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, sửa bản án sơ thẩm: Xủ phạt bị cáo S bằng thời hạn tạm giam là 07 tháng 14 ngày tù.

Bị cáo Danh S trình bày: Xin được giảm mức hình phạt tù vì bị cáo còn có vợ và con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Danh S, người bào chữa cho bị cáo-ông Huỳnh Khắc T và Kiểm sát viên đều thống nhất xác định bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và không có kháng cáo, kháng nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo.

[2] Bị cáo S là người xúi giục các bị cáo khác trong đó có bị cáo Danh Y là người dưới 18 tuổi trộm cắp tài sản với tổng giá trị là 11.400.000 đ (mười một triệu bốn trăm nghìn đồng) nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điểm o, Khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

[3] Bị cáo S có nhân thân tốt; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo là người dân tộc thiểu số nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm h, i, s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo S 09 (chín) tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, bảo đảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Bị cáo S kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điểm b, Khoản 2, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bị cáo S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a, Khoản 1, Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Căn cứ vào Điểm b, Khoản 2, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Danh S và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Khoản 1, Điều 173; Điểm h, i, s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điểm o, Khoản 1, Điều 52; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Danh S 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/10/2018.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Danh S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về: Tội danh đối với bị cáo Danh S và tội danh, trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 270/2019/HS-PT ngày 12/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:270/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về