TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 237/2019/HSPT NGÀY 22/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 03 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 183/2019/TL. HSPT ngày 26 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo: Kiều Trung S, Lê Viết T do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HSST ngày 18/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Kiều Trung S, sinh ngày 18/7/1984 tại Thành phố Hà Nội; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn nhà thờ, xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 10/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Kiều Văn Thành và bà Nguyễn Thị Hiên; Vợ là Khuất Thị Hiền (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2010; Danh chỉ bản số 000000400, lập ngày 24/9/2018 tại công an huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2002 học tập tại trường giáo dưỡng số 2 Bộ công an. Ngày 28/7/2004 Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản chiếm đoạt 7.000.000 đồng) và 24 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt của hai tội là 42 tháng tù. Ngày 17/02/2009 Toà án nhân dân thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản chiếm đoạt 1.300.000 đồng). Ngày 04/7/2012 Toà án nhân dân huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Ngày 11/4/2014 Toà án nhân dân quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xử phạt 26 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (trị giá tài sản chiếm đoạt 6.500.000 đồng); Bắt và tạm giữ ngày 23/9/2018, tạm giam ngày 01/10/2018; Có mặt.
2. Lê Viết T, sinh ngày 26/3/1992 tại tỉnh Thanh Hoá; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Lê Viết Dũng và bà Lê Thị Tình; Danh chỉ bản số 000000398, lập ngày 24/9/2018 tại công an huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: không; Bắt và tạm giữ ngày 23/9/2018, tạm giam ngày 01/10/2018; Có mặt.
- Trong vụ án còn có các Bị hại; Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo.
- Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ ngày 20/02/2018, Kiều Trung S rủ Lê Viết T đi ăn rồi đến Bệnh viện K trên địa bàn xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội để trộm cắp tài sản. Tuân đồng ý. Khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày, Sỹ và Tuân lên tầng 5 Tòa nhà B-Bệnh viện K Tân Triều xem ai sơ hở thì trộm cắp, nhưng do có nhiều người thức dậy nên không trộm cắp được, cả hai tiếp tục lên tầng 7 của Tòa nhà B, Tuân đứng ở cửa cầu thang máy cảnh giới, còn Sỹ vào phòng bệnh số 732 thấy anh Ngô Thế Anh và anh Nguyễn Thành Tịnh đang ngủ, trên bàn uống nước để 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đen có số IMEI 353808086545588 là tài sản của anh Thế Anh, 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu đen có số IMEI 355372080759008 và 01 Ipad màu xám hiệu Apple là tài sản của anh Tịnh. Sỹ đi vào phòng trộm cắp các tài sản này rồi cùng Tuân đi xuống sảnh tầng 1. Sỹ nói với Tuân trộm cắp được 01 Ipad rồi đưa cho Tuân cầm. Sau đó, Sỹ và Tuân đón xe taxi đi về hướng Mỹ Đình. Trên đường đi, Sỹ tháo vỏ ốp lưng của 02 điện thoại và 01 vỏ ốp lưng của chiếc Ipad vừa trộm cắp được vứt đi (Sỹ không nhớ vứt ở đâu). Khi đi đến cổng làng Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội thì Sỹ bảo Tuân đứng chờ, còn Sỹ đi đến cửa hàng Thức Nguyễn Mobile do anh Nguyễn Huy Thức làm chủ ở tổ dân phố 7, Đình Thôn, Mỹ Đình 1, Nam Từ Liêm, Hà Nội và bán toàn bộ tài sản trộm cắp trên cho anh Thức được 9.200.000 đồng. Sỹ chia cho Tuân 1.700.000 đồng, số tiền còn lại 7.500.000 đồng Sỹ sử dụng ăn tiêu hết.
Bản kết luận định giá tài sản số 220/KLĐG ngày 29/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Thanh trì đã kết luận: 02 điện thoại di động Iphone 7 Plus-128GB màu đen có giá trị 22.000.000 đồng (mỗi chiếc có giá trị 11.000.000 đồng); 01 chiếc Ipad Air 2-128GB màu ghi có trị giá 7.500.000 đồng; Tổng giá trị tài sản là 29.500.000 đồng.
Cơ quan Điều tra đã thu giữ của Sỹ 01điện thoại Iphone 6 màu trắng; Thu giữ của Tuân 01 điện thoại OPPO màu hồng và 1.700.000 đồng.
Anh Nguyễn Huy Thức đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Điều tra các tài sản đã mua của Tuân.
Cơ quan Điều tra đã trả anh Thế Anh điện thoại; Trả anh Tịnh điện thoại và Ipad. Anh Thế Anh và anh Tịnh không yêu cầu các bị cáo bồi thường về dân sự.
Quá trình điều tra còn xác định được: Ngày 11/3/2018, Sỹ và Tuân trộm cắp tài sản tại Bệnh viện K trên địa bàn phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội và đã bị Cơ quan Điều tra Công an quận Hoàn Kiếm khởi tố vụ án, khởi tối bị can. Đến nay các bị cáo chưa bị xét xử về hành vi trộm cắp này.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HSST ngày 18/01/2019 của Toà án nhân dân huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội đã quyết định: Tuyên bố: Kiều Trung S và Lê Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1, Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015
Xử phạt: Kiều Trung S 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2018;
Lê Viết T 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2018.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về Dân sự; Vật chứng; Án phí của các bị cáo; Quyền kháng cáo của các bị cáo, các bị hại và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Việc thi hành án của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 23/01/2019, bị cáo Kiều Trung S có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt; Ngày 24/01/2019 bị cáo Lê Viết T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Bị cáo Kiều Trung S giữ nguyên kháng cáo; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại cơ quan điều tra và cấp sơ thẩm; Xin được giảm nhẹ hình phạt.
Bị cáo Lê Viết T giữ nguyên kháng cáo; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại cơ quan điều tra và cấp sơ thẩm; Xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về hình thức: Các bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về hình thức:
Đơn kháng cáo của các bị cáo Kiều Trung S, Lê Viết T nộp trong thời hạn Luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Căn cứ lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, cũng như tại phiên toà phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 20/9/2018 Kiều Trung S rủ Lê Viết T đi đến bệnh viện K trên địa bàn huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội để xem nếu ai sơ hở không quản lý tài sản thì chiếm đoạt, Tuân đồng ý. Khi đến bệnh viện thì cả hai đi lên tầng 7 của toà nhà B, Sỹ bảo Tuân đứng ở cửa cầu thang máy để cảnh giới, còn Sỹ đi vào phòng bệnh số 732 và nhìn thấy anh Ngô Thế Anh, anh Nguyễn Thanh Tịnh đang ngủ, trên bàn uống nước có 01 điện thoại Iphone 7 plus mầu đen trị giá 11.000.000 đồng của anh Ngô Thế Anh và 01 điện thoại Iphone 7 plus mầu đen trị giá 11.000.000 đồng, 01 máy Ipad mầu xám trị giá 7.500.000 đồng của anh Nguyễn Thanh Tịnh không ai trông coi. Lợi dụng không có ai để ý, Sỹ đã lấy số tài sản trên và cùng Tuân tẩu thoát, rồi Sỹ đem bán chia nhau tiền với Tuân để ăn tiêu. Tổng giá trị tài sản Sỹ, Tuân đã chiếm đoạt của anh Tịnh, anh Thế Anh là 29.500.000 đồng.
Ngay sau khi bị mất tài sản ngày 20/9/2018 anh Thịnh và anh Thế Anh đã trình báo cơ quan công an. Ngày 23/9/2018 cơ quan công an đã bắt giữ Kiều Trung S và Lê Viết T.
Với hành vi trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Kiều Trung S, Lê Viết T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Các bị cáo là đồng phạm cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Sỹ với vai trò là người chủ mưu rủ Tuân đi trộm cắp tài sản và vai trò thực hành trực tiếp vào phòng bệnh thực hiện hành vi trộm cắp và bán tài sản trộm cắp được; Tuân với vai trò là người giúp sức cảnh giới cho Sỹ vào phòng bệnh trộm cắp nên vai trò của Sỹ cao hơn Tuân, mức hình phạt đối với Sỹ phải cao hơn mức hình phạt đối với Tuân.
Nhân thân của bị cáo Sỹ có 01 tiền sự ngoài thời hiệu và 04 tiền án đã được xoá án tích; Nhân thân của bị cáo Tuân chưa có tiền án, tiền sự.
Khi quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo là phù hợp. Tuy nhiên, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các bị cáo là ít nghiêm trọng, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho các bị hại. Bị cáo Sỹ có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khai báo thành khẩn; Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Tuân có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khai báo thành khẩn; Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bà nội bị cáo là bà mẹ Việt Nam anh hùng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo Tuân nên được áp dụng tại cấp phúc thẩm. Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định sủa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình sự; Giảm hình phạt cho các bị cáo.
[3]Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[4]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
I. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Kiều Trung S và bị cáo Lê Viết T.
II. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 03/2019/HSST ngày 18/01/2019 của Toà án nhân dân huyện Thanh trì, Thành phố Hà Nội về quyết định hình sự; Giảm hình phạt cho các bị cáo.
Tuyên bố: Kiều Trung S, Lê Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự Xử phạt: Kiều Trung S 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2018.
Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự Xử phạt: Lê Viết T 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2018.
III. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
IV. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 237/2019/HSPT ngày 22/03/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 237/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về