Bản án 263/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 263/2018/HS-ST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 254/2018/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2018, đối với các bị cáo: 

1. Họ tên: Vũ Văn H - sinh năm 1993 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã Đ1, huyện N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 20/38/107 đường N, phường H, quận M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn H1 và bà Lục Thị N; có vợ Nguyễn Thị T và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05-6-2018, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 14-6-2018 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ tên: Phạm Công L - sinh năm 1991 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 32A đường T, thị trấn L, huyện N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công N1 (đã chết) và bà Vũ Thị K; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05-6-2018, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 14-6-2018 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Mạnh L1, anh Phạm Ngọc S (vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 05-6-2018, tổ công tác Công an phường V, thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực trước cổng trường tiểu học X, đường N, phường L, thành phố Đ phát hiện Vũ Văn H và Phạm Công L đang ngồi trên xe máy BKS: 18E1- 32718 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi quần bên trái của H 01 gói nilong màu trắng bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (H và L đều khai là gói ma túy đá). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng rồi đưa H và L cùng người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ của L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng, tạm giữ của H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng và 01 xe máy BKS: 18E1- 32718 (đều đã cũ).

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Nam Định đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ. Tại bản kết luận giám định số 512/GĐKTHS ngày 08-6-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu vật gửi giám định thu giữ của Vũ Văn H và Phạm Công L là ma túy, loại chất ma túy là: Methamphetamine, có khối lượng 0,414 gam (không phẩy bốn một bốn gam).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Vũ Văn H và Phạm Công L khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để cùng sử dụng, đồng thời khai nhận về nguồn gốc gói ma túy như sau: Khoảng 12 giờ ngày 05-6-2018, H điều khiển xe máy BKS: 18E1- 32718 đi đến nhà L rủ đi mua ma túy về cùng sử dụng. L đồng ý và nói không có tiền nhưng biết chỗ mua ma túy, H nói có 500.000 đồng. Sau đó, L điều khiển xe máy chở h đi đến khu vực cầu Q, thành phố Đ thì L gọi điện thoại cho một nam thanh niên không rõ lai lịch hỏi mua 500.000 đồng ma túy. Nam thanh niên đó đồng ý và hẹn giao dịch ở khu vực trước cổng trường tiểu học X, đường N, phường L, thành phố Đ. Sau đó H và L đi đến điểm hẹn, H xuống mua của nam thanh niên 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng rồi cất gói ma túy vào túi quần bên trái đang mặc, H lên xe định cùng L đi về tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Chiếc xe máy BKS: 18E1- 32718 H khai mượn của bạn là anh Nguyễn Văn Đ - sinh năm 1988, trú tại: Xóm T 1, xã H, huyện N, tỉnh Nam Định. Chiếc xe máy này anh Nguyễn Văn Đ mượn của em trai anh ĐĐức là anh Nguyễn Văn T - sinh năm 1997, trú tại: Xóm T 1, xã H, huyện N, tỉnh Nam Định. Do anh Đ, anh T không biết việc H sử dụng xe đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Văn T.

Đối với đối tượng đã cung cấp gói ma túy cho Vũ Văn H và Phạm Công L, tài liệu Cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên đã tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Bản cáo trạng số 265/CT-VKSTPNĐ ngày 27-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L tại phiên tòa thể hiện hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự năm 2015: xử phạt bị cáo Vũ Văn H từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Công L từ 21 tháng tù đến 24 tháng tù. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Xử lý vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L nói lời sau cùng: Xin Hội đồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án nên có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 13 giờ ngày 05-6-2018, Vũ Văn H và Phạm Công L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,414 gam Methamphetamine mục đích để cùng sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang tại khu vực trước cổng trường tiểu học X, đường N, phường L, thành phố Đ. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Methamphetamine các bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,414 gam nên các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về cá thể hóa hình phạt: Các bị cáo cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên thuộc trường hợp đồng phạm. Xét vai trò của từng bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo Vũ Văn H là người khởi xướng, chuẩn bị tiền và phương tiện để mua ma túy nên xếp vai trò đầu vụ, bị cáo Phạm Công L đã liên lạc để mua ma túy nên xếp vai trò thứ hai.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi thực hiện tội phạm, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Các bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt:

Bị cáo Vũ Văn H xếp vai trò đầu vụ, bị cáo Phạm Công L xếp vai trò thứ hai. Vì vậy mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo Vũ Văn H sẽ nặng hơn đối với bị cáo Phạm Công L.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Iphone màu trắng (đã cũ) tạm giữ của Vũ Văn H xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử sẽ trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng (đã cũ) tạm giữ của Phạm Công L, bị cáo đã dùng để liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 21 (hai mươi mốt) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 05-6-2018.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Công L 18 (mười tám) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 05-6-2018.

2. Xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: số ma túy đã thu giữ.

Trả lại cho bị cáo Vũ Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng (đã cũ), song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu trắng (đã cũ) của bị cáo Phạm Công L.

(Vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23-8-2018).

3. Án phí:

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016.

Bị cáo Vũ Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Công L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo Vũ Văn H và Phạm Công L được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 263/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:263/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về