Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 26/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2021/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 06/2021/QĐST – HNGĐ ngày 31/3/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Hồng Ngọc A; Sinh năm: 1992 Địa chỉ: Khu 3, Thị trấn K, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Cao Sỹ H; Sinh năm: 1982 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có đơn xin xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 13/01/2021 và trong bản tự khai cũng trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Hồng Ngọc A trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Cao Sỹ H chung sống như vợ chồng và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào năm 2013. Sau đó, hai bên đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (Viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 22/6/2015. Sau ngày cưới, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H ham chơi bạn bè nên không quan tâm đến gia đình và vợ con. Chị nhiều lần khuyên can thì anh H chửi bới, đánh đập chị. Thời gian kéo dài khiến cho chị cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chán nản và không muốn tiếp tục cuộc hôn nhân này nữa. Hiện tại, chị và anh H đã sống ly thân đến nay được 02 năm, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống được nữa nên đề nghị TAND huyện Thạch Thành giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Cao Gia B, sinh ngày 06/10/2016. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

- Về tài sản: Chị Ngọc A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 31/3/2021, bị đơn anh Cao Sỹ H trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Vũ Hồng Ngọc A chung sống như vợ chồng và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào năm 2013. Sau đó, hai bên đi đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 22/6/2015. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống, không tin tưởng nhau trong chuyện tình cảm nên thường xuyên sảy ra cãi cọ. Chị Ngọc A đã về nhà bố mẹ đẻ từ năm 2018 đến nay và vợ chồng đã sống ly thân từ đó, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên anh cũng đồng ý ly hôn với chị Ngọc A.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Cao Gia B, sinh ngày 06/10/2016. Ly hôn, anh đồng ý được giao con cho chị Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ngọc A.

Về tài sản: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Hồng Ngọc A được ly hôn anh Cao Sỹ H; Về con chung: Giao cháu Cao Gia B, sinh ngày 06/10/2016 cho chị Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ngọc A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh H không có mặt nên tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh H theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh H đã được thông báo hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[4]. Tại phiên tòa hôm nay, chị A và anh H vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị A và anh H.

[5]. Về hôn nhân: Chị Vũ Hồng Ngọc A và anh Cao Sỹ H chung sống như vợ chồng và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào năm 2013. Sau đó, hai bên đi đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 22/6/2015. Việc kết hôn giữa chị Ngọc A và anh H là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng hoà thuận được 02 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ và đã có lần dẫn đến bạo lực gia đình. Hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng vẫn không được. Hiện tại, chị Ngọc A và anh H đã sống ly thân hơn 02 năm nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này, đã được UBND xã T xác nhận đồng thời cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Nay cả chị Ngọc A và anh H đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Vũ Hồng Ngọc A được ly hôn anh Cao Sỹ H.

[6]. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Cao Gia B, sinh ngày 06/10/2016. Ly hôn, cả chị Ngọc A và anh H đều yêu cầu giao con cho chị Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị Ngọc A và anh H.Giao cháu Cao Gia B, sinh ngày 06/10/2016 cho chị Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ngọc A.

[7]. Về tài sản: Chị Ngọc A và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Chị Ngọc A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ Hồng Ngọc A được ly hôn anh Cao Sỹ H.

2. Về con chung: Giao cháu Cao Gia B, sinh ngày 06/10/2016 cho chị Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Ngọc A.

Anh H có quyền qua lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Hồng Ngọc A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn nhưng được trừ vào số tiền chị Ngọc A đã nộp tạm ứng án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2018/0002985 ngày 13/01/2021, chị Ngọc A đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Vũ Hồng Ngọc A và anh Cao Sỹ H.

Anh H và chị Ngọc A có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về