Bản án 26/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NH DÂN HUYÊ N BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nH dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

Nguyễn Tiến H, sinh ngày 06 tháng 3 năm 1995 tại xã Đ, thành phố G, tỉnh Hà Giang; nơi đăng ký HKTT: Thôn H, xã Đ, thành phố G, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến H3, sinh năm 1972 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1975; Vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không. Nhân thấn: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/4/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Quang. Có mặt

Phan Mạnh H1, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1985 tại huyện Q, tỉnh Hà Giang; nơi đăng ký HKTT: Tổ N, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang; nơi tạm trú: Tổ 6, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Huy L, sinh năm 1954 và bà Hoàng Thị N, sinh năm 1952; Vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không.; nhân thấn: Ngày 31/7/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang xử phạt 9 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “trộm cắp tài sản”, thời gian thử thách là 12 tháng, ngày 13/02/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang xử phạt 30 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 23/01/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang xử phạt 18 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; đến ngày 05/12/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt trở về địa phương và đã được xóa án tích; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/4/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang. Có mặt.

Người làm chứng:

- Anh Đinh Quang T, sinh năm 1989. Vắng mặt.

- Anh Bùi Tuấn A, sinh năm 1999. Vắng mặt.

- Anh Đoàn Văn D, sinh năm 1972. Vắng mặt.

- Chị Lê Thị N, sinh năm 1976. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

o hồi 22 giờ 35 phút ngày 21/04/2020, tại đường D1 tổ 6, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, Tổ công tác Công an thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang tiến hành kiểm tra hành chính đối với xe taxi do Đinh Quang T, sinh năm 1989 trú tại Phường P, thành phố G, tỉnh Hà Giang điều khiển, trên xe có hai người khách là Nguyễn Tiến H, sinh năm 1995 và Bùi T Anh, sinh năm 1999 cùng trú tại thôn H, xã Đ, thành phố G, tỉnh Hà Giang. Quá trình kiểm tra Nguyễn Tiến H xuống xe và vứt xuống dưới chân 01 (một) gói nhỏ được gói bằng nilon màu trắng bên trong chứa chất nhựa dẻo màu đen nghi là nhựa thuốc phiện. Nguyễn Tiến H khai nhận số chất nhựa dẻo màu đen là nhựa thuốc phiện, H mua của một người đàn ông có số điện thoại M với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã niêm phong số chất nhựa dẻo màu đen, tạm giữ các vật chứng gồm 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng màu vàng trắng, mặt sau có dòng chữ Iphone (đã qua sử dụng) của Nguyễn Tiến H; 01 (một) điện thoại di động màu đen, loại bàn phím số, nhãn hiệu Nokia (đã qua sử dụng) của Nguyễn Tiến H và 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng màu vàng trắng, mặt sau có dòng chữ Iphone (đã qua sử dụng) của Bùi Tuấn A, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Tiến H và đưa Nguyễn Tiến H đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang để điều tra theo quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Quang, Nguyễn Tiến H đã khai nhận: Bản thân H là người nghiện ma túy từ cuối năm 2019, loại ma túy H hay sử dụng là heroin và nhựa thuốc phiện, quá trình sử dụng ma túy H xin được số điện thoại M từ một người đàn ông không quen biết để mua ma túy, do không biết tên mà chỉ biết người bán ma túy ở huyện Bắc Quang nên H lưu trong điện thoại là “C”. Vào 20 giờ 50 phút ngày 21/04/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên H đã sử dụng số điện thoại N để gọi cho “C” hỏi mua ma túy, nhưng “C” không nghe máy, sau đó H nhắn tin: “A ơi e xuống a lấy 5 phân đc k a. Mình e lấy thôi bạn e nó lấy 1 chỉ chưa chơi hết”, “C” trả lời: “Đc. Nhưng phải sớm chút”; H nhắn lại: “Giờ em xuống luôn”, “C” trả lời: “Ok”. Sau đó H gọi điện thoại cho Đinh Quang T là lái xe taxi, thuê T chở xuống huyện Q, trước khi đi H có rủ thêm Bùi Tuấn A đi cùng, trên đường đi H chỉ nói đi xuống Q chơi tí rồi về, ngoài ra không trao đổi gì thêm. Khi xuống đến huyện Q là 22 giờ 28 phút, H gọi điện thoại cho “C” nhưng “C” không nghe máy, sau đó H nhắn tin: “e xuống đến nơi rồi. Sao a k nge máy thế”, sau khi nhắn xong không thấy “C” trả lời H lại tiếp tục gọi điện thoại, “C” vẫn không nghe máy, sau đó H tiếp tục nhắn tin: “A có lấy cho e đc k a nói để e biết chứ a, e xuống đến đây rồi gọi a k nge vậy”, sau đó “C” có gọi lại và bảo H xuống cây xăng Nguyễn H (thuộc tổ N thị trấn Q, huyện Q) đợi, H bảo T lái xe xuống cây xăng Nguyễn Huệ, đợi được một lúc thì “C” gọi lại và bảo đi lên đoạn đường rẽ D1 thuộc tổ 6, thị trấn Việt Quang để lấy ma túy, H bảo T lái xe vào đoạn đường D1. Khi xe taxi dừng ở đường D1 thì có một người đàn ông đi từ trong gara ô tô gần đó đến đưa cho H 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong đựng chất nhựa dẻo màu đen, đồng thời H đưa 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) cho người đàn ông này. Sau khi giao dịch xong đang định đi về thì tổ công tác công an thị trấn Việt Quang tiến hành kiểm tra hành chính đối với xe taxi, yêu cầu những người trên xe xuống làm việc, lo sợ bị phát hiện tàng trữ trái phép chất ma túy nên H đã mở cửa xuống xe và vứt gói ma túy vừa mua được xuống dưới chân thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang.

Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được, hồi 15 giờ 40 phút cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Tiến H: kết quả khám xét không phát hiện và thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Qua quá trình điều tra nghiệp vụ, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang đã phát hiện người sử dụng số thuê bao: M là Phan Mạnh H1, sinh năm 1985 trú tại tổ N, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang (tạm trú và thường xuyên sinh sống tại tổ M thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang). Hồi 10 giờ 00 phút ngày 22/04/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Mạnh H1, quá trình khám xét Phan Mạnh H1 đã tự nguyện giao nộp 01 (một) lọ thủy tinh hình tròn có nắp màu nâu bên trong đựng chất bột màu trắng dạng cục, Phan Mạnh H1 khai nhận là heroin, ngoài ra không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Ti cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Quang, Phan Mạnh H1 đã khai nhận: Bản thân là người nghiện ma túy từ năm 2005, thường xuyên mua ma túy heroin về để sử dụng. Ngày 21/04/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Phan Mạnh H1 đã đến nhà của Đoàn Văn D, sinh năm 1972, trú tại tổ N, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang để mua heroin, do có quen biết nhau từ trước và thường xuyên mua ma túy của Du nên H1 đến thẳng nhà D, lúc này D đang tổ chức đám ma cho bố đẻ là ông Đoàn Văn D1 ở bên cạnh sát nơi D ở. Sau đó D về nhà thì H1 đưa cho D số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng), D đi vào buồng ngủ và mang ra một gói nhỏ bên trong chứa heroin dạng cục đưa cho H1, H1 cầm lấy và mang về nhà, lấy ra một ít để sử dụng, còn lại H1 cho số heroin dạng cục vào trong lọ thủy tinh hình tròn có nắp màu nâu để trên mặt tủ nhựa đựng quần áo gần cửa nhà vệ sinh, khi Công an đến khám xét H1 đã tự nguyện giao nộp.

Ngày 22/04/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành cân tịnh vật chứng thu giữ của Nguyễn Tiến H, Phan Mạnh H1. Kết quả cân tịnh số chất nhựa dẻo màu đen thu giữ của Nguyễn Tiến H có khối lượng là: 3,26 g (ba phẩy hai mươi sáu gam), số chất bột màu trắng dạng cục Phan Mạnh H1 tự nguyện giao nộp có khối lượng là: 1,50 g (một phẩy năm mươi gam).

Ngày 22/04/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 61, 62 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang giám định chất ma túy đối với chất nhựa dẻo màu đen thu giữ của Nguyễn Tiến H và chất bột màu trắng dạng cục Phan Mạnh H1 tự nguyện giao nộp. Tại kết luận giám định số 111/KL-PC09 ngày 28/04/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang có kết luận: Chất nhựa dẻo màu đen gửi giám định ký hiệu M2 là ma túy, loại nhựa thuốc phiện có khối lượng là 3,26g ( ba phẩy hai mươi sau gam). Thuốc phiện nằm trong Danh mục II, STT: 398 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Tại kết luận giám định số 112/KL-PC09 ngày 29/04/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang có kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục gửi giám định ký hiệu M1 là ma túy, loại ma túy heroin có khối lượng là 1,50g (một phẩy năm mươi gam). Heroine nằm trong Danh mục I, STT: 9 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn trả lại đối tượng giám định: Hoàn trả lại Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu M1 có khối lượng là 1,48g (một phẩy bốn mươi tám gam), và mẫu vật còn lại sau giám định ký hiệu M2 có khối lượng 3,1g (ba phẩy một gam). Có biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định kèm theo.

Với hành vi trên, tại Cáo trạng số: 32/QĐ-KSĐT ngày 05/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Nguyễn Tiến H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, truy tố Phan Mạnh H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Tiến H, Phan Mạnh H1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Tiến H, Phan Mạnh H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Về điều luật áp dụng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến H từ 01 năm 01 tháng tù đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/4/2020; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Phan Mạnh H1 từ 01 năm 06 tháng tù đến 01 năm 08 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/4/2020.

Về hình phạt bổ sung và án phí: Do các bị cáo không có thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo, các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Tiến H, Phan Mạnh H1 thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Bắc Quang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt người làm chứng nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra và việc họ vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ vào khoản 1 Điều 293 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.

[3] Căn cứ định tội, định khung hình phạt: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Tiến H, Phan Mạnh H1 tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản xét nghiệm chất ma túy trong nước tiểu; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ; biên bản khám xét; biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh xác định hiện trường; biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu vật chứng gửi giám định và kết luận giám định số 111/KL-PC09 ngày 28/04/2020 và 112/KL-PC09 ngày 29/04/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang, cùng tài liê u khác có trong hồ sơ đã có đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo Nguyễn Tiến H, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự, bị cáo Phan Mạnh H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang truy tố là đúng người, đúng tội.

[4] Điểm b, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … b) Nhựa thuốc phiện…có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…”

[5] Hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý, là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Các chất ma tuý nói chung và Heroine, thuốc phiện nói riêng là chất gây nghiện, không những huỷ hoại sức khoẻ của người mắc nghiện, mà còn là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng do lối sống đua đòi, chơi bời coi thường pháp luật nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Các bị cáo đều là những người nghiện ma túy lâu năm, bị cáo Nguyễn Tiến H sau khi mua được nhựa thuốc phiện chưa kịp sử dụng đã bị bắt quả tang và thu giữ, còn bị cáo Phan Mạnh H1 mua ma túy Heroine về cất trong nhà để sử dụng dần, khi bị cơ quan Công an huyện Bắc Quang khám xét đã tự nguyện giao nộp. Căn cứ vào kết quả cân tịnh và kết luận giám định thì khối lượng thuốc phiên bị cáo Nguyễn Tiến H tàng trữ là 3,26 gam và khối lượng Heroine bị cáo Phan Mạnh H1 tàng trữ là 1,50 gam, do đó cần xử lý các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra để giáo dục các bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung.

[6] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Các bị cáo Nguyễn Tiến H, Phan Mạnh H1 không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải, ngoài ra bị cáo H phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, còn bị cáo H1 không có nghề nghiệp ổn định, sống chung cùng mẹ già thường xuyên đau ốm, bản tH bị cáo là trụ cột trong gia đình, quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện giao nộp lọ ma túy Heroine bị cáo cất trữ trong nhà cho cơ quan điều tra. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên cũng được xem xét khi áp dụng mức hình phạt, để thể hiện chính sách khoan hồng đối với các bị cáo. Tuy nhiên đối với bị cáo Phan Mạnh H1 có nhân thân xấu, cho nên khi áp dụng mức hình phạt Hội đồng xét xử sẽ quyết định bị cáo Phan Mạnh H1 mức hình phạt cao hơn bị cáo Nguyễn Tiến H.

[7] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Tiến H khai mua nhựa thuốc phiện của Phan Mạnh H1 vào ngày 21/04/2020, Cơ quan cảnh sát điều Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành các biện pháp nghiệp vụ: Cho các đối tượng đối chất, kết quả Phan Mạnh H1 không thừa nhận được bán ma túy cho Nguyễn Tiến H; quá trình nhận dạng Nguyễn Tiến H không nhận ra ai là người đã bán ma túy cho mình. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh Phan Mạnh H1 có hành vi bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Tiến H mà trong quá trình khám xét nơi ở của Phan Mạnh H1 bị cáo đã tự nguyện giao nộp lọ ma túy Heroine bị cáo cất trữ trong nhà để sử dụng nên bị cáo chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, còn hành vi mua bán ma túy đối với bị cáo Phan Mạnh H1, quá trình điiều tra không có căn cứ để xử lý bị cáo H1 về hành vi mua bán ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không đề cập để xử lý.

[9] Bị cáo Phan Mạnh H1 khai nhận được mua ma túy heroin của Đoàn Văn Du, sinh năm 1972, nơi cư trú: Tổ M, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Hà Giang vào ngày 21/04/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã tiến hành đối chất nhưng Đoàn Văn D không thừa nhận được bán ma túy cho Phan Mạnh H1. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra không thu thập được tài liệu, chứng cứ chứng minh Đoàn Văn D có hành vi bán ma túy cho bị cáo Phan Mạnh H1. Do vậy Hội đồng xét xử không đề cập để xử lý.

[10] Đinh Quang T là người lái tácxi chở Nguyễn Tiến H từ thành phố Hà Giang xuống huyện Bắc Quang và Bùi Tuấn A được H rủ xuống huyện Q chơi, quá trình giao dịch mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Tiến H thì Bùi Tuấn A và Đinh Quang T không biết nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không đề cập để xử lý.

[11] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xử lý như sau:

[12] Đối với 01 điện thoại di động màu đen loại bàn phím số ở mặt trước, mặt sau có dòng chữ NOKIA (Máy đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động loại màn hình cảm ứng màu vàng trắng, mặt sau có dòng chữ Iphone (Máy đã qua sử dụng). Đây là công cụ, phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội, do vậy cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[13] Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì màu trắng, mặt trước phong bì có ghi "Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M2", mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của thành phần tham gia niêm phong; 01 vỏ bao phong bì màu trắng bên trong đựng mẫu vật trước khi cân tịnh có ghi "Vật chứng gửi giám định chất ma túy chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét tại nơi ở của Phan Mạnh H1 ngày 22/4/2020 tổ 6, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang" ký hiệu M1; 01 vỏ bao phong bì màu trắng bên trong đựng mẫu vật trước khi cân tịnh có ghi "Vật chứng gửi giám định chất nhựa dẻo màu đen thu giữ của Nguyễn Tiến H khi bắt quả tang ngày 21/4/2020 tại tổ 6, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, Hà Giang" ký hiệu A1; 01 lọ thủy tinh hình tròn có nắp màu nâu (Đã qua sử dụng).

[14] Đối với 01 điện thoại di động loại cảm ứng màu hồng, mặt sau có dòng chữ OPPO (Máy đã qua sử dụng). Đây là vật chứng thu giữ của bị cáo Phan Mạnh H1, xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo Phan Mạnh H1.

[15] Đối với chiếc điện thoại di động loại màn hình cảm ứng màu vàng trắng, mặt sau có chữ Iphone thu giữ của Nguyễn Tiến H khi bắt quả tang, quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại không liên quan đến hành vi phạm tội nên ngày 10/7/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bắc Quang đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số: 26 trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Hội đồng xét xử thấy việc trả lại tài sản là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.

[16] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luâ t.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Tiến H;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Mạnh H1;

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến H và bị cáo Phan Mạnh H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến H 01 năm 01 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 22/4/2020).

- Xử phạt bị cáo Phan Mạnh H1 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 22/4/2020).

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động màu đen loại bàn phím số ở mặt trước, mặt sau có dòng chữ NOKIA (Máy đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động loại màn hình cảm ứng màu vàng trắng, mặt sau có dòng chữ Iphone (Máy đã qua sử dụng).

- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì màu trắng, mặt trước phong bì có ghi "Mẫu vật hoàn trả sau giám định ký hiệu M2", mặt sau phong bì có 02 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang và các chữ ký, chữ viết của thành phần tham gia niêm phong; 01 vỏ bao phong bì màu trắng bên trong đựng mẫu vật trước khi cân tịnh có ghi "Vật chứng gửi giám định chất ma túy chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét tại nơi ở của Phan Mạnh H1 ngày 22/4/2020 tổ 6, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang" ký hiệu M1; 01 vỏ bao phong bì màu trắng bên trong đựng mẫu vật trước khi cân tịnh có ghi "Vật chứng gửi giám định chất nhựa dẻo màu đen thu giữ của Nguyễn Tiến H khi bắt quả tang ngày 21/4/2020 tại tổ 6, thị trấn Việt Quang, huyện Bắc Quang, Hà Giang" ký hiệu A1; 01 lọ thủy tinh hình tròn có nắp màu nâu (Đã qua sử dụng).

- Trả lại cho bị cáo Phan Mạnh H1 01 điện thoại di động loại cảm ứng màu hồng, mặt sau có dòng chữ OPPO (Máy đã qua sử dụng).

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang ngày 18 tháng 8 năm 2020).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tiến H và bị cáo Phan Mạnh H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về