Bản án 26/2020/HSST ngày 22/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 26/2020/HSST NGÀY 22/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 26/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Diễm M, sinh ngày 11 tháng 8 năm 1984 tại Gia Lai; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Làng M N, xã Chư A, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khắc G, sinh năm 1948 và bà Vũ Thị T, sinh năm 1955; bị cáo có chồng là Ksor Y, sinh năm 1981 và có ba con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo Nguyễn Thị Diễm M bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 29-10-2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị Diễm M là người có sử dụng ma túy. Qua mối quan hệ ngoài xã hội, M có được số điện thoại của nam thanh niên tên Thùy (không rõ nhân thân, lai lịch) có bán ma túy. Khoảng 13 giờ ngày 17-10-2019, nam thanh niên tên K (không rõ nhân thân, lai lịch) là người quen của M đến nhà của M chơi nên M mượn điện thoại của K, rồi gọi cho đối tượng T hỏi mua ma túy về sử dụng, T đồng ý và hẹn M đến khu vực vòng xoay ngã ba xã Chư A, thành phố P để thực hiện việc mua bán ma túy. Sau đó, K đi về, còn M đi bộ đến địa điểm trên thì gặp đối tượng nam thanh niên bán cho M 01 gói nilon, bên trong chứa ma túy đá với giá 500.000đồng. Sau đó, M cầm gói ma túy đem về để trên bàn trong phòng ngủ của M tại làng mơ Nú, xã Chư A, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Đến 14 giờ 10 phút ngày 17-10-2019 thì M bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang; thu giữ trên bàn trong phòng ngủ của M 01 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (được niêm phong theo quy định). Ngoài ra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P còn thu giữ của M 01 chai nhựa trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút bằng nhựa.

Qua trưng cầu giám định, tại bản Kết luận giám định số 633/KLGĐ ngày 25-10-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:

“Chất màu trắng dạng tinh thể trong gói nilon, trong bì thư niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,6776 gam”

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như những tình tiết nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 25 tháng 02 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng, không thay đổi bổ sung gì và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M mức án từ 1 năm 3 tháng đến 1 năm 6 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn ghi số 633/PC09 ngày 25-10-2019, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai; 01 chai nhựa trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút bằng nhựa.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo lo cho các con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng và các quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai người chứng kiến và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Đồng thời căn cứ vào bản Kết luận giám định số 633/KLGĐ ngày 25-10-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 14 giờ 10 phút ngày 17-10-2019, tại làng M N, xã Chư A, thành phố P, tỉnh Gia Lai, khi Nguyễn Thị Diễm M đang cất giấu 0,6776 gam ma túy, loại Methamphetamine, với mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Bị cáo Nguyễn Thị Diễm M là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện đó là lỗi cố ý, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Về hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Diễm M có đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hành vi của bị cáo được xác định là tội phạm nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự trị an xã hội.

[4] Để có mức án thỏa đáng, ngoài việc xem xét, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nêu trên thì còn phải xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo trong vụ án để quyết định hình phạt cụ thể:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

[5] Căn cứ vào quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần lên cho bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Xét mức án đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là phù hợp được Hội đồng xét xử chấp nhận ở mức khởi điểm của đề nghị.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” nên bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, hành vi phạm tội không liên quan đến nghề nghiệp nên HĐXX miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với chất ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định, Cơ quan giám định hoàn trả cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku trong 01 bì công văn ghi số 633/PC09 ngày 25-10-2019, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với 01 chai nhựa trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút bằng nhựa là dụng cụ bị cáo dùng để sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về các vấn đề khác: Đối với đối tượng tên Thùy là người mà bị cáo Nguyễn Thị Diễm M khai đã bán ma túy cho bị cáo My tại ngã ba vòng xoay xã Chư Á, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai và đối tượng tên Khanh là người cho bị cáo M mượn điện thoại để liên lạc mua ma túy, do bị cáo không biết được nhân thân, lai lịch của Thùy và Khanh nên chưa có căn cứ để điều tra, xử lý. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh và xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Diễm M 1 (một) năm 3(ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

3. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Xử: Tịch thu tiêu hủy 01 bì công văn ghi số 633/PC09 ngày 25-10-2019, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai; 01 chai nhựa trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh uốn cong một đầu và một đoạn ống hút bằng nhựa. (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26-02-2020 giữa Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử buộc bị cáo Nguyễn Thị Diễm M phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2020/HSST ngày 22/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về