Bản án 26/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 26/2019/HS-ST NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sư thẩm số: 26/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Văn C, sinh ngày 04 tháng 9 năm 1981 tại huyện Q, tỉnh G. Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện Q, tỉnh G; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn P, sinh năm 1953 và bà Phạm Thị C1, sinh năm 1953; có vợ là Ngán Thị T1, sinh năm 1985 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2008; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 29/2016/HSST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích). Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại: Bà Bàn Thị S, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện Q, tỉnh G. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lý Xuân T, sinh năm 1984; nơi cư trú: Thôn M, xã N, huyện Q, tỉnh G. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt) - Người làm chứng:

+ Chị Trần Thị H, sinh năm 1990. Vắng mặt.

+ Anh Đặng Văn Đ, sinh năm 1993. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Ông Hoàng Văn S1, S năm 1974. Vắng mặt.

+ Anh Hoàng Văn Đ1, S năm 2000. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 01/02/2019, Hoàng Văn C, sinh năm 1981, trú tại: Thôn P, xã T, huyện Q, tỉnh G đi nhờ xe máy của một người không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể từ xã T đến xã N, huyện Q để chơi. Đến khoảng 01 giờ ngày 02/02/2019, C một mình đi bộ theo đường liên thôn M, xã N để về nhà tại xã T, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Lúc này thời gian vào ban đêm, trời tối nên C sử dụng điện thoại di động Nokia màu xanh, bật ánh sáng đèn của điện thoại để soi sáng. Khi đi qua nhà chị Trần Thị H, sinh năm 1990, trú tại thôn M, xã N, huyện Q, tỉnh G. C phát hiện thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, biển kiểm soát 23D1-233.97 (xe mô tô của chị Bàn Thị S, sinh năm 1985, trú tại M, xã N, huyện Q, tỉnh G gửi nhờ nhà chị H) dựng trong sân trước cửa nhà. C quan sát thấy nhà chị H đã đóng cửa, tắt điện, không có người ở khu vực xung quanh nên đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô. C đi đến gần xe mô tô, tay trái cầm điện thoại soi sáng, tay phải cậy yên xe, bên trong cốp xe có một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên chị Bàn Thị S và 01 (một) tuốc nơ vít. C dùng tay phải lấy tuốc nơ vít ra khỏi cốp xe mô tô, dùng tuốc nơ vít cho vào ổ khóa điện và vặn mở được khóa xe. Sau đó, C để điện thoại vào túi quần, dùng hai tay dắt xe mô tô theo đường liên thôn khoảng 10m rổi khởi động, điều khiển xe đi đến xã N, huyện X, tỉnh G để tìm nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp nhưng không tìm được nơi tiêu thụ. Đến ngày 06/02/2019, C mang xe mô tô đã trộm cắp được của chị bàn Thị S đến chơi và gửi lại ở nhà Hoàng Văn S1, S năm 1974, trú tại thôn P, xã N, huyện X, tỉnh G. Sau khi phát hiện xe mô tô bị mất cắp, chị Bàn Thị S đã trình báo sự việc với cơ quan công an. Đến 17 giờ 30 phút ngày 15/02/2019, C nhận thức được hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô là vi phạm pháp luật nên đã đến Công an huyện Bắc Quang đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình Tại bản kết luận định giá tài sản số 22/KL-HĐĐG ngày 21/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, màu sơn đen – xanh, số máy: 5C6J174623; số khung RLCS5C6J0GY174514. Xe không có gương chiếu hậu, thân vỏ vẫn còn nguyên, không kiểm tra phần máy bên trong, xe vẫn hoạt động bình thường, xe đã qua sử dụng từ năm 2016, chiếc xe trên có giá là 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng); 01 (một) tuốc nơ vít dài 14cm, phần tay năm bằng nhựa đen, phần đầu mũi bằng kim loại, đã qua sử dụng, có giá 5.000 đồng (năm nghìn đồng). Tổng cộng 12.005.000 đồng (mười hai triệu không trăm linh năm nghìn đồng).

Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 26/CT-VKSBQ ngày 20/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang truy tố Hoàng Văn C về tội: Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố đối với Hoàng Văn C theo bản cáo trạng.

Về hình phạt: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C từ 06 tháng đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về hình phạt bổ sung và án phí: Bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên không đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại được tài sản và đều đã có đơn không yêu cầu bồi thường dân sự do vậy không đề cập xử lý.

Về xử lý vật chứng:

Ngày 21/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã ra quyết định xử lý vật chứng số 15, trả lại những tài sản đã thu giữ cho chủ sở hữu là chị Bàn Thị S, việc trả lại tài sản là đúng quy định nên không đề cập xem xét.

Đối với chiếc điện thoại Nokia màu xanh C dùng để chiếu sáng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, C khai báo trên đường đi tìm nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp đã đánh rơi mất. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã thông báo truy tìm vật chứng nhưng không tìm thấy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn C thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Bắc Quang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt, nhưng trước đó đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xét thấy sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt: Lời khai nhận tội của Hoàng Văn C tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu như: Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự ngày 21 tháng 2 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ xác định hiện trường, bản ảnh xác định hiện trường cùng lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 02 tháng 02 năm 2019, bị cáo Hoàng Văn C đã có hành vi trộm cắp tài sản của bà Bàn Thị S 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, biển kiểm soát 23D1-233.97, màu sơn đen – xanh, số máy: 5C6J174623; số khung RLCS5C6J0GY174514, xe đã qua sử dụng, không có gương chiếu hậu có giá 12.000.000 đồng (Mười hai triệu đồng). 01 (một) tuốc nơ vít dài 14cm, phần tay năm bằng nhựa đen, phần đầu mũi bằng kim loại, đã qua sử dụng, có giá 5.000 đồng (năm nghìn đồng). Tổng cộng 12.005.000 đồng (mười hai triệu không trăm linh năm nghìn đồng). Do đó hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Đồng thời còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người bị hại để lén lút trộm cắp tài sản của người khác nhằm mục đích phục vụ chi tiêu cá nhân. Do vậy cần phải xử lý bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa chung.

Đối với Hoàng Văn S1 là người cho Hoàng Văn C gửi chiếc xe mô tô của bà Bàn Thị S vào ngày 06/02/2019 tại thôn P, xã N, huyện X, tỉnh G: Khi C gửi xe có Hoàng Văn Đ là con trai Hoàng Văn S1 chứng kiến sự việc. Tuy nhiên, C không nói cho Hoàng Văn S1 và Hoàng Văn Đ biết chiếc xe mô tô là tài sản trộm cắp được nên không xem xét xử lý.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có T tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên cũng được xem xét khi áp dụng mức hình phạt để thể hiện chính sách khoan hồng đối với bị cáo. Bị cáo có nhân thân không tốt: Bản án số 29/2016/HSST ngày 28/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích). Mặc dù đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không những không biết tu dưỡng rèn luyện đạo đức mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật với lỗi cố ý.

[4] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[5] Về dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường do vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, biển kiểm soát 23D1-233.97, màu sơn đen – xanh, số máy: 5C6J174623; số khung RLCS5C6J0GY174514, xe đã qua sử dụng, không có gương chiếu hậu; 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 007326 do Công an huyện Bắc Quang cấp ngày 28/3/2016 cho xe mô tô biển kiểm soát 23D1-233.97, chủ xe Bàn Thị S, trú tại thôn M, xã N, huyện Q, tỉnh G; 01 (một) tuốc nơ vít dài 14cm, phần tay năm bằng nhựa đen, phần đầu mũi bằng kim loại, đã qua sử dụng. Ngày 21/02/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã ra quyết định xử lý vật chứng số 15, trả lại những tài sản nêu trên cho chủ sở hữu là chị Bàn Thị S. Hội đồng xét xử thấy việc trả lại tài sản cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.

Đối với chiếc điện thoại Nokia màu xanh C dùng để chiếu sáng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, C khai báo trên đường đi tìm nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp đã đánh rơi mất. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã thông báo truy tìm vật chứng nhưng không tìm thấy nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân dự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HS-ST ngày 31/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về