Bản án 26/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 về tội cố ý gây thương tích và hủy hoại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 26/2019/HS-ST NGÀY 15/03/2019 VỀ TI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2019/TLST-HS, ngày 30 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Hậu G (tên gọi khác: Không), sinh ngày 20/05/2001; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp C, xã Đ, huyện D, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Con ông Nguyễn Văn N; Con bà Nguyễn Thị N; vợ: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: 01 lần. Ngày 14/12/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xử phát 06 tháng tù về tội “Có ý gấy thương tích”, bị cáo đang chấp hành án tại Công án tỉnh Trà Vinh; Bị khởi tố ngày 17/01/2019. Ngày 21/01/2019 được trích xuất điều chuyển về nhà Tạm giữ Công an huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau cho đến nay.

Bị cáo đang tạm giam có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện họp pháp cho bị cáo:

- Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1978 (có mặt).

- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1980 (vắng mặt).

Cùng trú tại: Ấp C, xã Đ, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

Bào chữa cho bị cáo: Ông Sử Chí H là luật sự thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

Bị hại:

1 Anh Trần Văn L, sinh năm 1987(có mặt)

Địa chỉ: Ấp L, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang

2 Chị Trần Thị Mộng T, sinh năm 1981 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp L, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang

Người làm chứng: Anh Lê Dũng C, sinh năm 1977 (vắng mặt)

Cùng địa chỉ: Ấp B, xã B, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 08 giờ ngày 04/8/2018, anh Lê Dũng C điều khiển chiếc xà lan mang hiệu số AG-21489 đậu tại bến đá ấp Rạch Lùm A, xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, đi trên phương tiện gồm có: Lê Dũng C, Nguyễn Hậu G và Tài. Sau khi anh C neo đậu xà lan xong, Nguyễn Hậu G đi mua 01 thùng bia về đưa lên xà lan, tổ chức nhậu gồm có Chinh, Tài, Gian, trong lúc nhậu Tài rủ Trần Văn L là người đi xà lan cho anh Nguyễn Văn Sỹ đậu cập bên xà lan của anh C, Lâm đồng ý qua cùng nhậu được khoảng 30 phút thì Chinh nghỉ nhậu lên nằm võng ngủ, Lâm và Gian tiếp tục nhậu đến 09 giờ 30 phút thì nghỉ. Lâm đi về xà lan của Lâm nằm nghỉ được 10 phút Gian đi sang xà lan của Lâm rủ Lâm nhậu tiếp, Lâm đồng ý, sau đó Lâm và Gian đi mua 02 lít rượu và chôm chôm về xà lan của Chinh nhậu tiếp, riêng Tài uống khoảng 02-03 ly thì nghỉ nhậu ngồi chơi được khoảng 20 phút. Gian và Lâm xảy ra mâu thuẫn cự cải nhau qua lại. Gian đi ra phía sau xà lan lấy 01 cây dao bằng sắt dài 35cm dấu phía sau lưng và 01 óng típ sắt tròn dài khoảng 55cm cầm trên tay trái đi vào đứng đối diện chổ Lâm ngồi, Gian cầm ống tiếp đánh vào đầu Lâm một cái, Lâm dùng tay ôm đầu, Gian tiếp tục lấy dao cầm trên tay phải chém từ trên xuống vào người của Lâm, Lâm đưa tay phải lên đở thì trúng 01 nhát vào cổ tay phải, Gian tiếp tục chém nhát thứ 2 trúng vào bàn tay trái của Lâm thì được anh C và mọi người can ra chở Lâm đi bệnh viện điều trị.

Đến khoảng 10 giờ cùng ngày Gian tiếp tục cầm ống típ sắt đến xà lan anh Sỹ tìm Lâm để đánh tiếp nhưng không gặp Lâm. Gian cầm dao và ống típ đập phá tài sản trên xà làn gồm: 01 cái Taptel hiệu Mastel, 02 quạt gió, 02 bóng đèn chử U, vứt 05 cậy dao xuống sông, đập hư 02 cái thao, 01 cái rỗ, 02 cái nồi bằng gang, 01 cái nòi bằng nhôm, 02 cây kéo, 01 cái chảo bằng nhôm, 01 cái chảo chống dính, 01 cái tủ lạnh nhỏ, 05 cái chén, 05 cái tô, 05 cái đĩa, 10 đôi đủa, 01 chai nước rữa chén, 02 chai dầu gội, 02 chai sửa tắm, 01 cái thùn bê, 02 khúc ống nhựa. Sau khi chém Lâm và đập phá tài sản của chị T sau đó Gian bỏ trốn. Hiện nay Công an huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh phát hiện bắt giam Nguyễn Hậu G về tội cố ý gây thương tích. Anh L làm đơn yêu cầu xử lý hình sự và bồi thường các khoản tiền chi phí điều trị là 34.114.000 đồng; chị T yêu cầu bồi thường tổng số tiền 8.984.500 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 cây dao bằng sắt mũi nhọn dài 35cm, 01 cây típ sắt dài 55cm, 01 cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng đã hư hỏng không còn sử dụng được.

*/ Kết luận giám định pháp y về thương tích số 215/TgT ngày 14/9/2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Cà Mau kết luận đối với Trần Văn L: 01 vết sẹo dùng đỉnh phải, kích thước: 7,5cm x 0,2cm. Tỷ lệ 3%; 01 vết sẹo từ 1/3 dưới mặt sau cảng tay phải, đến mặt sau cổ tay phải, kích thước: 6cm x 0,2cm. Tỷ lệ 3%; 01 vết sẹo ngón I lòng bàn tay trái, kích thước: 7,5cm x 0,2cm. tỷ lệ 3%; Tổn thương nhánh thần kinh giữa tay trái, tỷ lệ 11%.; Tổn thương nhánh thần kinh giữa tay phải, tỷ lệ 11%; Tổn thương nhánh thần kinh tru tay phải, tỷ lệ 11%; Đứt gân duỗi các ngón II, III, IV, tay phải đã khâu nói, hiện tại hạn chế vận động các ngon II, III, IV tay phải mức độ ít. Tỷ lệ 3%. Các vết thường này là Do vật sắt nhọn gây ra. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra nên tại thời điểm giám định là: 38%.

Theo kết luận đinh giá số 47 ngày 27/8/2018 của Hội đồng định giá UBND huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau kết luận, số tài sản chị Trần Thị Mộng T trị giá 8.984.500 đồng.

Ngày 02/10/2018 Công an huyện Trần Văn Thời ra quyết định khởi tố vụ án Ngày 14/12/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xử phạt 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án số 21/2018/HSST. Bị cáo đang chấp hành án tại Công an tỉnh Trà Vinh.

Ngày 18/01/2019 được trích xuất điều chuyển về nhà tạm giữ Công an huyện Trần Văn Thời cho đến nay.

*/ Tại cáo trạng số: 18/CT-VKS ngày 30/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời truy tố Nguyễn Hậu G về tội "Cố ý gây thương tích và tội hủy hoại tài sản" theo điểm c khoản 3 Điều 134 và khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị hại Trần Văn L yêu cầu bị cáo Nguyễn Hậu G bồi thường thiệt hại tổng cộng 34.114.000 đồng, 01 cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng theo kết luận định giá 6.000.000 đồng, tổn thất tinh thần giải quyết theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, bị hại yêu cầu HĐXX xử theo pháp luật.

Tại phiên tòa bị hại Trần Thị Mộng T yêu cầu bị cáo Nguyễn Hậu G bồi thường thiệt hại tổng cộng 2.984.500 đồng. Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, bị hại yêu cầu HĐXX xử theo pháp luật.

Bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt. Đối với yêu cầu về bồi thường thiệt hại, bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 40.114.000 đồng cho bị hại Lâm, tiền tổn thất tin thần giải quyết theo quy định của pháp luật. Đồng ý bồi thường số tiền 2.984.500 đồng cho bị hại Thu.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo là ông Nguyễn Văn N thống nhất với ý kiến của bị cáo về trách nhiệm bồi thường.

Kim sát viên tham gia phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất và các tình tiết của vụ án và đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 178; điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91 của Bộ luật hình sự năm 2015, phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Phạt bị cáo từ 06 tháng đến 01 năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Áp dụng 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, Hình phạt chung bị cáo phải chấp hành từ 06 năm đến 07 năm tù; Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 589, 590 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo và người đại diện họp pháp là ông Nguyễn Văn N bồi thường cho bị hại Lâm số tiền 40.114.000 đồng, và tiền tổn thất tinh thần do HĐXX xem xét theo quy định. Buộc bị cáo và người đại diện họp pháp là ông Nguyễn Văn N bồi thường cho bị hại Thu số tiền 2.984.500 đồng; Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ Luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây dao bằng sắt mũi nhọn dài 35cm, 01(một) cây típ sắt dài 55cm, 01 (một) cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng.

Về án phí đề nghị buộc bị cáo và đại diện họp pháp là ông N, bà Nương phải chịu án phí theo quy định.

Người bào chữa đề nghị HĐXX áp dụng: điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lý do bị cáo thật tha khai báo, bị cáo có người thân là ông Nguyễn Văn Đô là người có tham gia cách mạng và gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn.

Bị cáo thống nhất theo đề nghị của luật sư, bị cáo không tham gia tranh luận chỉ nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trần Văn Thời, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, các bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Kết quả thẩm vấn, tranh luận công khai tại phiên tòa và thảo luận nghị án của HĐXX cho thấy đã có đủ cơ sở để kết luận diễn biến nội dung vụ án như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời mô tả và truy tố. Bị cáo Nguyễn Hậu G đã thừa nhận hành vi dùng ống típ sắt và dao nhọn gây thương tích cho bị hại Trần Văn L. Theo kết luận giám định của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Cà Mau kết luận tổng tỉ lệ thương tật của anh Trần Văn L là 38%.

Bị cáo Nguyễn Hậu G đã thừa nhận dùng óng típ sắt và dao nhọn đập phá tài sản của bị hại Thu. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá UBND huyện Trần Văn Thời kết luận số tài sản bị cáo đập phá trị giá 8.984.500 đồng. Trong số tài sản bị đập phá có tài sản của anh L là 01 cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng.

Như vậy đã có đầy đủ cơ sở quy kết bị cáo Nguyễn Hậu G về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự và tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị cáo thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hậu G là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức rõ việc dùng hung khí như típ sắt, dao là vật cứng, nhọn sắc bén khi đập hoặc chém mạnh vào người khác sẽ gây thương tích. Sau khi đã thương bị hại Lâm, bị cáo không dừng lại mà còn tiếp tục lại đi kiếm bị hại Lâm để đánh tiếp, khi kiếm bị hại Lâm không gập, bị cáo đập phá tài sản của bị hại Thu. Cho thấy, hành vi của bị cáo thể hiện bản tính côn đồ, hung hãn, xem thường pháp luật, xem thường tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi đó đã gây mất an ninh trật tự, trị an ở địa phương, gây hoan mang lo sợ trong quần chúng nhân dân. Mặc dù, khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên. Ngoài vụ án này ra bị cáo còn đang chấp hành án trong một vụ án khác cũng về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Trong các lần phạm tội bị cáo có hành vi bỏ trốn, gây khó khăn cho Cơ quan tiến hành tố tụng.

Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải cách ly bị cáo ra khổi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ để giao dục riêng cho bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, thật thà nhận tội nên xem đây là những tình tiết làm căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù họp với chính sách khoan hồng của pháp luật.

Tại tòa Luật sư bào chữa cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lý do bị cáo có người thân là người có công cách mạng và gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nhưng không cung cấp được tài liệu để chứng minh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Sự tự nguyện thỏa thuận của ông Nguyễn Văn N và bị hại Lâm, bị hại Thu ở tại phiên tòa về mức bồi thường các khoản chi phí điều trị thương tích của anh L và tài sản bị đập phá 01 cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng Với tổng số tiền 40.114.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật nên công nhận sự tự nguyện. Về mức bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần xét thấy cần buộc bị cáo và ông N bồi thường thêm cho bị hại Lâm 05 tháng lương cơ sở là 6.950.000 đồng. Do đó, tổng mức tiền bồi thường cho bị hại Lâm là 47.064.000 đồng.

Buộc bị cáo và người đại diện họp pháp là ông Nguyễn Văn N bồi thường cho bị hại Thu số tiền 2.984.500 đồng đồng [5] Xử lý vật chứng: 01 (một) cây dao bằng sắt mũi nhọn dài 35cm, 01(một) cây típ sắt dài 55cm, 01 (một) cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng. Do không còn giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu theo Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hậu G phạm tội "Cố ý gây thương tích" và tội “Hủy hoại tài sản”.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hậu G 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Hình phạt chung bị cáo phải chấp hành là 06(Sáu) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giam, ngày 28/02/2019.

2.Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 589, Điều 590 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo và người đại diện họp pháp là ông Nguyễn Văn N bồi thường cho bị hại Lâm số tiền. 47.064.000 đồng. Buộc bị cáo và người đại diện họp pháp là ông Nguyễn Văn N bồi thường cho bị hại Thu số tiền 2.984.500 đồng đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả thêm khoản lãi tương ứng với số tiền chưa thi hành án với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật hình sự; Tịch thu tiêu hủy 01 (một) cây dao bằng sắt mũi nhọn dài 35cm, 01 (một) cây típ sắt dài 55cm, 01 (một) cái Tabtel hiệu Masstel màu trắng.

(Các tài sản trên, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời đang quản lý).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng điểm a, điểm c, điểm f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Hậu G phải nộp số tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (chưa nộp). Buộc ông Nguyễn Văn N nộp 2.502.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án này là sơ thẩm, bị cáo, người đại diện họp pháp của bị cáo, các bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án họp lệ. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo luật định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 về tội cố ý gây thương tích và hủy hoại tài sản

Số hiệu:26/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về