Bản án 26/2018/HS-ST ngày 05/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 26/2018/HS-ST NGÀY 05/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 31 tháng 8 năm 2018 và ngày 05 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2018/TLST-HS, ngày 12 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2018/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Văn Đ, sinh năm 1971, tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp B, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Chạy xe honđa khách; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn P(chết) và bà Lê Thị A (chết); bị cáo có vợ và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Lê Tấn Ng, sinh năm 1965 (Vắng mặt). Cư trú: Ấp B, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 16 tháng 5 năm 2018, Đoàn Văn Đ điều khiển xe môtô hiệu Wave RSX màu đỏ-đen, biển kiểm soát 69K1-190.84 chạy từ quán cà phê Như Ý thuộc xã Tân Hưng Tây, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau đến chòi canh tôm của ông Lê Tấn Ng thuộc ấp C, xã Ph, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau để rủ ông Ng nhậu. Lúc này, thấy cửa chòi không đóng, đèn sáng, ông Ng đang nằm ngủ thì bị cáo nảy sinh ý định lấy trộm tài sản nên bị cáo vào lấy một điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand Prime màu xám đen, màn hình cảm ứng bên trong có 02 sim, 01 thẻ nhớ đang sạc pin bỏ vào túi quần và số tiền 3.500.000 đồng trong ví của ông Ng. Sau khi lấy trộm được tài sản bị cáo điều khiển xe chạy về nhà người quen ngủ. Ông Ng thức dậy thì phát hiện tài sản bị mất trộm nên trình báo Công an.

Tại Kết luận số: 11/KL-HĐĐG ngày 21 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng định giá tố tụng hình sự huyện Phú Tân, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Grand Prime màu xám đen, màn hình cảm ứng có giá trị còn lại là 363.300 đồng, 01 sim vinaphone có giá là 100.000 đồng và 01 sim mobifone có trị giá là 150.000 đồng, 01 thẻ nhớ dung lượng 16GB có trị giá là 100.000 đồng và số tiền 3.500.000 đồng nên tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 4.213.300 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 11 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đã truy tố Đoàn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, giai đoạn tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Đoàn Văn Đ từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước xe môtô hiệu Wave RSX màu đỏ-đen, biển kiểm soát 69K1-190.84 theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và tội danh đã bị truy tố, không có ý kiến tranh luận chỉ xin được hưởng án treo.

Ông Lê Tấn Ng cho rằng tài sản bị mất, ông đã nhận lại đủ, bị cáo có bồi thường cho ông với số tiền 30.000 đồng nên không yêu cầu bồi thường gì thêm mà xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Trong quá trình điều tra cơ quan điều tra ban hành kết luận điều tra, Viện kiểm sát ban hành cáo trạng để khởi tố và truy tố bị cáo nhưng bị cáo không có ý kiến hay yêu cầu khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quá trình thu thập tài liệu chứng, đánh giá chứng cứ, chứng minh phù hợp với quy định của pháp luật nên có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử theo quy định chung.

 [2] Qua xem xét toàn bộ nội dung vụ án, cho thấy: Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 16 tháng 5 năm 2018, lợi dụng lúc ông Lê Tấn Ng ngủ say, không quản lý tài sản, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Lê Tấn Ng có tổng giá trị là 4.213.300 đồng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

 [3] Trong vụ án này bị cáo là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, xâm phạm pháp luật hình sự. Bị cáo đủ tuổi luật định, quá trình hoạt động nhận thức diễn ra bình thường và đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự.

 [4] Qua phân tích trên, chứng tỏ lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

 [5] Xét hành vi bị cáo cho thấy là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác, xâm phạm đến pháp luật hình sự. Nên áp dụng mức hình phạt tương xứng hành vi, tính chất và mức độ của bị cáo đã thực hiện.

 [6] Xét nhân thân của bị cáo, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường thiệt hại cho bị hại và có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật hình sự. Qua đó cho bị cáo thấy được sự nghiêm minh, cũng như sự khoan hồng của pháp luật mà cải tạo thành người công dân có ích. Tuy nhiên, vẫn áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mới đủ tính ngăn đe và phòng ngừa tội phạm.

 [7] Về tài sản bị cáo chiếm đoạt, ông Lê Tấn Ng không yêu cầu bị cáo bồi thường nên về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

 [8] Về vật chứng vụ án: 01 xe môtô hiệu Wave RSX màu đỏ-đen, biển kiểm soát 69K1-190.84, số máy JA31E0446746, số khung RLHTA 3114EY249985 là tài sản của bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên bị tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự là có căn cứ. 

 [9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đoàn Văn Đ chịu theo quy định của Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Về tội danh: Bị cáo Đoàn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đoàn Văn Đ 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo chấp hành án.

Vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe môtô hiệu Wave RSX màu đỏ-đen, biển kiểm soát 69K1- 190.84, số máy JA31E0446746, số khung RLHTA3114EY249985. Hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2018.

Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đoàn Văn Đ chịu 200.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự Ng thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 26/2018/HS-ST ngày 05/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:26/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về