Bản án 261/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 261/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 259/2019/TLST- HS ngày 04 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 262/2019/QĐXXST – HS ngày 09 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

PNT, sinh năm 1996 tại BT; Thường trú: Thôn 5, xã MP, huyện ĐL, tỉnh BT; chỗ ở: khu phố BT2, phường TG, thị xã TA, tỉnh BD; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông PT, sinh năm 1963 và bà NTG, sinh năm 1971; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam từ ngày 20 tháng 6 năm 2019; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. LHH, vắng mặt.

2. STTV, vắng mặt.

3. LVT, vắng mặt.

4. NTQ, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 20/6/2019 lực lượng trinh sát Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương phối hợp với Công an phường Thuận Giao tiến hành kiểm tra hành chính tại địa chỉ nhà số A14/25A khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương do bà NTQ làm chủ. Khi lực lượng công an kiểm tra đến phòng trọ số 8 thì phát hiện 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, lúc này PNT khai nhận bản thân có sử dụng ma túy đá đồng thời T lấy ra 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng trong túi quần (T khai nhận là ma túy của Thắng) giao nộp cho cơ quan công an. Sau đó, lực lượng công an đã tiến hành lập biên bản thu giữ tang vật và bắt quả tang đối với PNT.

Tang vật thu giữ gồm: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp).

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 20/6/2019 T đi đến khi vực quận TB, Thành phố HCM mua một gói ma túy của một người thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ với giá 600.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong T gặp LVT, T rủ T đến phòng trọ của LHH thì T đồng ý. Khi đang ở phòng trọ của H cùng với STTV thì lực lượng công an đến kiểm tra hành chính, biết không thể giấu được nên Thắng đã lấy gói ma túy từ trong người ra giao nộp cho công an.

Bản kết luận giám định số 495/MT-PC09 ngày 21/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 túi nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong 01 bì thư dán kín có khối lượng (trọng lượng) 1,2194 gam loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 273/CT-VKS-TA ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo PNT về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo PNT mức hình phạt từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật như sau:

Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; mẫu tinh thể còn lại sau giám định 1,0127 gam đựng trong 01 bì thư được niêm phong là vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với các đối tượng LHH, STTV, LVT không biết PNT cất giấu ma túy trong người nên không đủ cơ sở để xử lý hình sự. Cơ quan điều tra Công an thị xã Thuận An giao các đối tượng cho Công an phường Thuận Giao, thị xã Thuận An để xử lý theo quy định.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra Công an thị xã Thuận An đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không đủ thông tin về lai lịch địa chỉ nên chưa có cơ sở xử lý, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh và xử lý sau.

Tại phiên tòa, bị cáo PNT đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Lời khai của những người làm chứng đã trình bày trong quá trình điều tra và không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo PNT đã khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 20/6/2019 tại địa chỉ nhà số A14/25A khu phố Bình Thuận 2, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, PNT có hành vi tàng trữ trái phép ma túy có trọng lương 1,2194 gam loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bắt quả tang. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo PNT về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của Nhà nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội, nhiều căn bệnh hiểm nghèo, tạo gánh nặng cho xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được tác hại của ma túy, biết rằng việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm và sẽ bị trừng trị nhưng bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, cần xử phạt bị cáo với mức án phù hợp, cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình tội phạm về ma túy diễn ra ngày càng nhiều, thủ đoạn ngày càng tinh vi, để lại những hậu quả nặng nề, gây nhiều bức xúc cho xã hội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối chiếu với mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với đối tượng bán ma túy cho T chưa xác định được lai lịch địa chỉ khi nào xác minh được sẽ được xử lý sau.

Đối với các đối tượng LHH, STTV, LVT không biết PNT cất giấu ma túy trong người nên không đủ cơ sở để xử lý hình sự. Cơ quan điều tra Công an thị xã Thuận An giao các đối tượng cho Công an phường Thuận Giao, thị xã Thuận An để xử lý là đúng quy định.

[3] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; mẫu tinh thể còn lại sau giám định 1,0127 gam đựng trong 01 bì thư được niêm phong là vật chứng trong vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 47; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo PNT phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy .

Xử phạt bị cáo PNT 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 6 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá; mẫu tinh thể còn lại sau giám định 1,0127 gam đựng trong 01 bì thư được niêm phong ký hiệu 495/PC09 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/9/2019).

3. Về án phí: Bị cáo PNT phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 261/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:261/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về