Bản án 261/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP.HÀ NỘI

BẢN ÁN 261/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 270/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 276/2019/QĐXXST-HS ngày 02/10 /2019 đối với các bị cáo:

1. LÙ VĂN M – sinh năm: 1992 tại Điện Biên; HKTT và chỗ ở: Bản N – xã L – huyện Điện Biên Đông – tỉnh Điện Biên; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; con ông Lù Văn D và bà Lường Thị T; TATS: Theo danh chỉ bản số 293 ngày 07 / 4/2019 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị bắt ngày 04 - 4 -2019. (Có mặt).

2. LÒ VĂN T – sinh năm: 1984 tại Điện Biên; HKTT và chỗ ở: Bản C – xã L – huyện Điện Biên Đông – tỉnh Điện Biên; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Không; con ông Lò Văn D và bà Vì Thị B; Vợ: Cà Thị Thín; Có 02 con: Nhỏ SN 2003, lớn SN 2005; TATS: Theo danh chỉ bản số 294ngày 07/4/2019 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị bắt ngày 04 - 4 -2019. (Có mặt).

Luật sư bào chữa cho các bị cáo: Bà Đỗ Thị Hương – Văn phòng Luật sư Bảo Nhân – Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h50’ ngày 04/4/2019, tổ công tác Công an phường Bồ Đề làm nhiệm vụ tuần tra khu vực phát hiện Lù Văn M, Lò Văn Tư đang đứng ở quán nước số 2 ngách 99/2 phố Ái Mộ - Bồ Đề - Long Biên - Hà Nội có biểu hiện nghi vấn đã tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện tại túi quần dài phía trước bên trái của Lù Văn M có 02 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng đục. Tại chỗ M khai nhận đây là ma túy Heroin, M cùng Lò Văn T, Lò Văn Tư mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật, đưa các đối tượng về trụ sở cơ quan công an tiếp tục làm rõ.

Tang vật thu giữ:

- Thu giữ của Lù Văn M: 02 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. Thu giữ của Lò Văn Tư: 100.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 2193/KLGĐ-PC09 ngày 12/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc màu trắng đều là ma túy loại Heroin, có tổng khối lượng 0,156 gam.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên, Lù Văn M, Lò Văn T, Lò Văn Tư khai nhận:

Bản thân các đối tượng đều là người nghiện ma túy và cùng làm tại công trường xây dựng tại phường Bồ Đề - Long Biên – Hà Nội. Khoảng 11h ngày 04/4/2019 sau khi ăn cơm xong, Lù Văn M, Lò Văn T, Lò Văn Tư bàn nhau cùng góp tiền để mua ma túy về sử dụng chung, mua hết bao nhiêu tiền sẽ chia đều cho cả ba để trả. T đưa cho M số tiền 200.000 đồng, M có 50.000 đồng, còn Tư chưa có tiền để góp nên hứa khi nào có lương sẽ trả tiền cho M sau. Do số tiền góp được chỉ đủ để đi taxi nên cả ba đã bàn nhau cầm cố chiếc điện thoại của M lấy 300.000 đồng để mua ma túy, sau đó có tiền sẽ góp lại để trả cho M. Bàn bạc xong, Tư gọi taxi cho M và T đi sang khu vực Gia Lâm (không rõ địa chỉ cụ thể) để cầm cố chiếc điện thoại của M được 300.000 đồng, rồi tiếp tục đi taxi sang khu vực Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh để mua ma túy, Tư ở lại công trường làm việc đợi M và T. Tại khu vực Từ Sơn, M và T đã đến một ngôi nhà có cửa gỗ màu đỏ trong một con ngõ nhỏ (không rõ địa chỉ cụ thể), mua của một người (không rõ là nam hay nữ) ở trong ngôi nhà này 02 gói ma túy bọc trong giấy bạc màu trắng với giá 300.000 đồng qua lỗ nhỏ cạnh ngôi nhà. Mua xong, M cầm 02 gói ma túy cất vào túi quần phía trước bên trái đang mặc rồi cùng T đi taxi về trước cửa số 2, ngách 99/2 Ái Mộ, phường Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội. Khi xuống xe, M và T gặp Tư, T đi vào công trường trước, M và Tư cùng đi vào quán nước ven đường để mua thuốc lá và nước thì bị lực lượng công an kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Cơ quan công an phát hiện tại túi quần phía trước bên trái của M có 02 gói nhỏ bằng giấy bạc màu trắng, trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, M khai nhận đây là ma túy Heroin cùng T, Tư mua về để sử dụng chung. Cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật, đưa các đối tượng về trụ sở tiếp tục làm rõ.

Bản cáo trạng số:276/CT-VKS ngày 18-9-2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Lù Văn M, Lò Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Lù Văn M, Lò Văn T đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của các bị cáo vi phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều38 của BLHS 2015.

Về hình phạt:

- Đề nghị xử phạt bị cáo M mức án từ 15 đến 18 tháng tù.Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015.

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,156 gam ma túy loại Heroine.

Tại phiên tòa Luật sư bào chữa cho các bị cáo phát biểu và đề nghị: Các bị cáo M, T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế, nhất trí với phần luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Long Biên, đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất,đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Nói lời sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào 12h50’ ngày 04/4/2019, tại khu vực số 2 ngách 99/2 phố Ái Mộ - Bồ Đề - Long Biên - Hà Nội, các bị cáo Lù Văn M và Lò Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,156 gam ma túy loại Heroin, mục đích để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Bồ Đề - Long Biên - Hà Nội phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

[3] Hành vi của các bị cáo Lù Văn M, Lò Văn T đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015. Trong vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo M,T cùng nhau góp tiền mua ma túy để sử dụng chung.Vì vậy, để mức án bị cáo M và T ngang bằng nhau là có căn cứ.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố các bị cáo về các tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy được Bộ luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Nhân thân của các bị cáo M, T đều chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS.

Trong khi Đảng và Nhà nước ta đang kiên quyết đấu tranh để loại trừ tệ nạn ma túy, mại dâm ra khỏi đời sống xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo xét về tính chất, mức độ và nhân thân bị cáo xấu thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, các bị cáo là người dân tộc thiểu số, ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[7] - Tịch thu, tiêu hủy 0,156 gam ma túy loại Heroine là vật nhà nước cấm lưu hành.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về vấn đề khác:

[8] - Đối với đối tượng đã bán trái phép chất ma túy cho M, T, Tư, do M, T, Tư khai không biết gì về nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ.

- Đối với người lái xe taxi đã chở M, T đi mua ma túy, do M và T khai không biết nhân thân lai lịch người này nên Cơ quan điều tra không đề cập vấn đề xử lý.

- Đối với Lò Văn Tư do bị cáo Tư chưa có tiền án, tiền sự và có nơi cư trú rõ ràng nên cơ quan điều tra đã áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Tư. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập Tư lên làm việc nhưng Tư không có mặt theo yêu cầu. Xác minh tại địa phương được biết Tư không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì gia đình và chính quyền địa phương không biết. Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đối với Tư. Do thời hạn điều tra đã hết nhưng chưa bắt được bị can Tư nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án đối với bị can Lò Văn Tư để xử lý theo quy định của pháp luật là có căn cứ.

- Về án phí:

[9] Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lù Văn M, Lò Văn Thương phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt: bị cáo Lù Văn M 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 04-4-2018.

Xử phạt: bị cáo Lò Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 04-4-2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,156 gam Heroine (Hiện đang lưu giữ tại Kho tang vật Công an quận Long Biên theo Phiếu nhập vật chứng ngày28 / 8/2019).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 261/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:261/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về