Bản án 258/2019/HS-ST ngày 13/06/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 258/2019/HS-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 150/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 221/2019/QĐXXST-HS ngày 15/5/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Ngọc P; Tên gọi khác: P quạ đen, Đen; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 28/7/1998; Tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: 59/112/15B, khu phố 2, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: lớp 8/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Lê Ngọc L (đã chết) và bà Trần Thị Ngọc H (còn sống); Bị cáo là con duy nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05/12/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số 31 ngày 13/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. Bị cáo có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Trọng H; Tên gọi khác: H sáu ngón; Giới tính: Nam; Sinh ngày 11/9/2003; Tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: Khu phố 5, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: lớp 6/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Nguyễn Tận H, sinh năm 1974 (còn sống) và bà Lý Thị Kim T, sinh năm 1984 (còn sống); Bị cáo là con duy nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05/12/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số 32 ngày 13/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. Bị cáo có mặt.

3. Họ và tên: Phạm Trọng N; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10/11/2002; Tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: 235/93, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: lớp 8/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Phạm Văn V, sinh năm 1978 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974 (còn sống); Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05/12/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số 34 ngày 13/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. Bị cáo có mặt.

4. Họ và tên: Trương Minh Q; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 22/3/2002; Tại: Tiền Giang; Nơi đăng ký thường trú: Ấp C, xã K, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nơi ở trước khi bị bắt: K4/33, khu phố 4, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: lớp 8/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Họ tên cha: Không rõ; Họ tên mẹ: Trương Thị Mai L, sinh năm 1985 (còn sống); Bị cáo là con duy nhất trong gia đình và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 05/12/2018, chuyển tạm giam theo lệnh số 35 ngày 13/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. Bị cáo có mặt.

* Bị hại:

1/ Bà Trần Thị S, sinh năm 1948.

Trú tại: 112/B2, tổ 8, khu phố 10, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

2/ Bà Võ Thị S, sinh năm 1964.

Trú tại: 18/21/15, khu phố 4, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

3/ Bà Phú Thị P, sinh năm 1960.

Trú tại: A83B, tổ 28, khu phố 5, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H:

1/ Ông Nguyễn Tận H, sinh năm 1974.

Trú tại: 9/5, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

2/ Bà Lý Thị Kim T, sinh năm 1984.

Trú tại: 293/28A, khu phố 5, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạ m Trọng N: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1974.

Trú tại: 235/93K, khu phố 2, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Minh Q: Bà Trương Thị Mai L, sinh năm 1985.

Trú tại: K4/33, khu phố 4, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

* Người bào chữa của các bị cáo H, N và Q: Ông Nguyễn Như T – Luật sư thuộc Công ty Luật Một thành viên D – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Ngọc P, Trương Minh Q, Phạm Trọng N và Nguyễn Trọng H là những người không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài, P, Q, N và H đã thực hiện nhiều vụ cướp giật tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Lê Ngọc P biết bà Võ Thị S, ngụ tại số 18/21/15 khu phố 4, phường Q, thành phố B bán tạp hóa ban đêm tại hẻm 296, khu phố 3, phường T, thành phố B nên P đã rủ Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N đi cướp giật tài sản của bà S thì H và N đồng ý. Khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 20/11/2018, P điều khiển xe mô tô hiệu Wave, biển số 60F3-071.42 chở N và H đi đến tiệm tạp hóa của bà S, khi đến nơi P dừng xe ngoài đường để H đi bộ vào trong tiệm giả vờ hỏi mua 10.000đồng (Mười ngàn đồng) thuốc lá Jet và đưa cho bà S 01 tờ tiền 20.000đồng (Hai mươi ngàn đồng). Khi bà S lấy số tiền 90.000đồng (Chín mươi ngàn đồng) cầm trên tay để trả lại tiền thừa cho H thì H giật lấy số tiền trên tay bà S rồi chạy ra ngoài ngồi lên xe để P chở tẩu thoát. Sau đó, H đưa số tiền này cho P đi mua cơm cho cả nhóm.

Vật chứng của vụ án: 01 xe mô tô hiệu Wave, biển số 60F3-071.42 do Phạm Trọng N mượn của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị L. Do bà L không biết việc N sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà L.

Về dân sự: Bà Võ Thị S yêu cầu Lê Ngọc P, Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N bồi thường số tiền 90.000đồng (Chín mươi ngàn đồng). Hiện P, N và H chưa bồi thường.

Vụ thứ hai: Khoảng 08 giờ 20 phút, ngày 23/11/2018, Lê Ngọc P rủ Nguyễn Trọng H đi cướp giật tài sản thì H đồng ý. P điều khiển xe mô tô Wave Alpha, biển số 60B1-711.46 chở H đi trên đường hẻm đoạn gần văn phòng khu phố 10, phường T, thành phố B thì P hiện bà Trần Thị S đang điều khiển xe đạp đi ngược chiều và trên giỏ xe phía trước có để 01 chiếc giỏ xách màu nâu, bên trong giỏ có 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 và 480.000 đồng (Bốn trăm tám mươi ngàn đồng) nên P điều khiển xe quay lại và vượt lên áp sát phía bên trái xe đạp của bà S để H ngồi phía sau dùng tay giật lấy chiếc giỏ xách của bà S rồi P điều khiển xe chở H tẩu thoát. Sau đó, P đem chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 105 đi bán cho 01 tiệm mua bán điện thoại (không rõ địa chỉ) được 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng) và P cùng H dùng toàn bộ số tiền cướp giật được và tiền bán điện thoại để chơi game và ăn uống hết.

Vật chứng của vụ án:

- 01 chiếc giỏ xách màu nâu Lê Ngọc P đã vứt bỏ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 do Lê Ngọc P đã bán cho 01 tiệm mua bán điện thoại (không rõ địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

- 01 xe mô tô hiệu Wave Alpha, biển số 60B1-711.46 do Trương Minh Q mượn của bà Trương Thị Mai L (là mẹ ruột của Q) sau đó Q cho P mượn, do bà L không biết việc Q cho P mượn xe để sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà L.

Tại bản kết luận định giá số 99/TCKH-HĐĐG ngày 19/03/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 có giá trị định giá là 260.000đồng (Hai trăm sáu mươi ngàn đồng)”.

Đi với chiếc giỏ xách đã cũ, không rõ nhãn hiệu và không thu hồi được nên bà Trần Thị S không yêu cầu định giá và bồi thường.

Về dân sự: bà Trần Thị S yêu cầu Lê Ngọc P và Nguyễn Trọng H bồi thường 780.000đồng (Bảy trăm tám mươi ngàn đồng). Hiện P và H chưa bồi thường.

Vụ thứ ba: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 28/11/2018, Trương Minh Q, điều khiển xe mô tô Honda Wave, biển số 60B1-711.46 chở Nguyễn Trọng H đi trên đoạn đường H thuộc khu phố 5, phường B, thành phố B thì P hiện bà Phú Thị P đang điều khiển xe mô tô đi cùng chiều, trên ba ga xe có để 01 chiếc giỏ xách bên trong có 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên người cao tuổi, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ công nhân công ty Changshin nên H rủ Q cướp giật giỏ xách của bà P thì Q đồng ý. Q điều khiển xe mô tô áp sát vào phía bên trái xe mô tô của bà P để H ngồi sau dùng tay giật chiếc giỏ xách của bà P rồi Q điều khiển xe mô tô chở H tẩu thoát. Sau đó, H chia cho Q 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng), còn lại H và Q cùng nhau tiêu xài hết. Đối với số giấy tờ của bà P thì Q đem về phòng trọ cất giữ, còn chiếc giỏ xách thì Q vứt bỏ.

Sau khi bị cướp giật tài sản, bà Phú Thị P đã trình báo Công an phường B lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra, xác minh. Ngày 05/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bắt, tạm giữ Lê Ngọc P, Trương Minh Q, Phạm Trọng N và Nguyễn Trọng H để điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 giỏ xách của bà Phú Thị P do Trương Minh Q đã vứt bỏ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng minh nhân dân, của bà Phú Thị P do Trương Minh Q đã làm mất nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

- 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên người cao tuổi, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ công nhân công ty Changshin, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho bà Phú Thị P.

- 01 xe mô tô hiệu Wave Alpha, biển số 60B1-711.46 do Trương Minh Q mượn của bà Trương Thị Mai L là mẹ ruột của Q, do bà L không biết việc Q sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà L.

Đi với 01 chiếc giỏ xách đã cũ, không rõ nhãn hiệu và không thu hồi được nên bà Phú Thị P không yêu cầu định giá và bồi thường.

Về dân sự: bà Phú Thị P yêu cầu Trương Minh Q và Nguyễn Trọng H bồi thường 800.000 đ (Tám trăm ngàn đồng). Hiện Q và H chưa bồi thường.

Trong quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội theo như nội dung cáo trạng mô tả. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 166/CT-VKSBH ngày 29/3/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố các bị cáo Lê Ngọc P, Nguyễn Trọng H và Trương Minh Q về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại khoản 2 Điêu 171 Bộ luật hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Phạm Trọng N về tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điêu 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Lê Ngọc P mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù giam.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng H mức án từ 20 tháng đến 24 tháng tù giam. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù giam của bản án số 134/2019/HS-ST ngày 22/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, buộc bị cáo Nguyễn Trọng H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 10 (Mười) tháng đến 03 (Ba) năm 02 (Hai) tháng tù giam.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Trương Minh Q mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam.

- Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Bị cáo Phạm Trọng N mức án từ 12 tháng đến 14 tháng tù giam.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để các bị cáo sớm về gia đình.

Ông Nguyễn Như T bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Trọng H, Trương Minh Q và Phạm Trọng N trình bày lời bào chữa: Thống nhất nội dung cáo trạng truy tố, về mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đưa ra quá nghiêm khắc, các bị cáo tuổi còn nhỏ, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, riêng bị cáo H phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có nhiều hạn chế, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo N thì cha mất sớm, bị cáo Q và H thì cha mẹ không sống cùng nhau nên các bị cáo không nhận được sự quan tâm, giáo dục đầy đủ của gia đình. Tại phiên tòa, các bị cáo và người đại diện hợp pháp của các bị cáo tự nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại. Ngoài ra, bị hại là bà Phú Thị P xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo H và Q. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo bản án nặng về giáo dục và nhẹ về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng trong hồ sơ vụ án: Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Ngọc P, Nguyễn Trọng H, Trương Minh Q và Phạm Trọng N đã khai nhận: Để có tiền tiêu xài, P, Q, N và H đã thực hiện nhiều vụ cướp giật tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Lê Ngọc P biết bà Võ Thị S bán tạp hóa ban đêm nên P đã rủ Nguyễn Trọng H và Phạm Trọng N đi cướp giật tài sản của bà S thì H và N đồng ý. Khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 20/11/2018, P điều khiển xe mô tô hiệu Wave, biển số 60F3-071.42 chở N và H đi đến tiệm tạp hóa của bà S, khi đến nơi P dừng xe ngoài đường để H đi bộ vào trong tiệm giả vờ hỏi mua 10.000đồng (Mười ngàn đồng) thuốc lá Jet và đưa cho bà S 01 tờ tiền 20.000đồng (Hai mươi ngàn đồng). Khi bà S lấy số tiền 90.000đồng (Chín mươi ngàn đồng) cầm trên tay để trả lại tiền thừa cho H thì H giật lấy số tiền trên tay bà S rồi chạy ra ngoài ngồi lên xe để P chở tẩu thoát. Sau đó, H đưa số tiền này cho P đi mua cơm cho cả nhóm.

Vụ thứ hai: Khoảng 08 giờ 20 phút, ngày 23/11/2018, Lê Ngọc P rủ Nguyễn Trọng H đi cướp giật tài sản thì H đồng ý. P điều khiển xe mô tô Wave Alpha, biển số 60B1-711.46 chở H đi trên đường hẻm đoạn gần văn phòng khu phố 10, phường T, thành phố B thì P hiện bà Trần Thị S đang điều khiển xe đạp đi ngược chiều và trên giỏ xe phía trước có để 01 chiếc giỏ xách màu nâu, bên trong giỏ có 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 và 480.000 đồng (Bốn trăm tám mươi ngàn đồng) nên P điều khiển xe quay lại và vượt lên áp sát phía bên trái xe đạp của bà S để H ngồi phía sau dùng tay giật lấy chiếc giỏ xách của bà S rồi P điều khiển xe chở H tẩu thoát. Sau đó, P đem chiếc điện thoại di động hiệu Nokia 105 đi bán cho 01 tiệm mua bán điện thoại (không rõ địa chỉ) được 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng) và P cùng H dùng toàn bộ số tiền cướp giật được và tiền bán điện thoại để chơi game và ăn uống hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 05 giờ 30 phút ngày 28/11/2018, Trương Minh Q, điều khiển xe mô tô Honda Wave, biển số 60B1-711.46 chở Nguyễn Trọng H đi trên đoạn đường H thuộc khu phố 5, phường B, thành phố B thì P hiện bà Phú Thị P đang điều khiển xe mô tô đi cùng chiều, trên ba ga xe có để 01 chiếc giỏ xách bên trong có 500.000 đồng (Năm trăm ngàn đồng), 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên người cao tuổi, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ công nhân công ty Changshin nên H rủ Q cướp giật giỏ xách của bà P thì Q đồng ý. Q điều khiển xe mô tô áp sát vào phía bên trái xe mô tô của bà P để H ngồi sau dùng tay giật chiếc giỏ xách của bà P rồi Q điều khiển xe mô tô chở H tẩu thoát. Sau đó, H chia cho Q 150.000 đồng (Một trăm năm mươi ngàn đồng), còn lại H và Q cùng nhau tiêu xài hết. Đối với số giấy tờ của bà P thì Q đem về phòng trọ cất giữ, còn chiếc giỏ xách thì Q vứt bỏ.

Sau khi bị cướp giật tài sản, bà Phú Thị P đã trình báo Công an phường B lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra, xác minh. Ngày 05/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã bắt, tạm giữ Lê Ngọc P, Trương Minh Q, Phạm Trọng N và Nguyễn Trọng H để điều tra, xử lý.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời khai người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

ngưi làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Lê Ngọc P, Nguyễn Trọng H và Trương Minh Q phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; hành vi của bị cáo Phạm Trọng N phạm tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điêu 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như nội dung bản cáo trạng số 166/CT-VKSBH ngày 29/3/2019, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Quá trình điều tra thì Lê Ngọc P và Nguyễn Trọng H còn khai nhận trong tháng 11/2018 (không rõ ngày) P và H đã cùng nhau cướp giật 01 chiếc giỏ xách bên trong có 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm ngàn đồng) của 01 người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) đang đi bộ trên đoạn đường Phan Văn Trị thuộc khu phố 5, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; 01 chiếc giỏ xách bên trong có 79.000 đồng (Bảy mươi chín ngàn đồng) của 01 người phụ nữ không rõ họ tên, địa chỉ đang đứng trước Bến xe B thuộc phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; số tiền 79.000 đồng của 01 người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) đang đi bộ tại hẻm 760, đường Phạm Văn Thuận, khu phố 7, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Hiện nay chưa xác minh được những người bị hại (do người bị hại không trình báo) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đang tiếp tục điều tra, xác minh, khi đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Ngoài ra, ngày 02/12/2018 các bị cáo Trương Minh Q, Nguyễn Trọng H, Phạm Trọng N còn thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe mô tô biển số 60T5- 0432 của chị Lê Thị Tuyết N tại phường T, thành phố B, sau đó H đã đem bán xe mô tô trên cho 01 người không rõ họ tên, địa chỉ được 1.800.000 đồng (Một triệu tám trăm ngàn đồng) và cả nhóm tiêu xài hết. Tuy nhiên, do xe mô tô trên chưa thu hồi được, không xác định được chủng loại, nhãn hiệu nên Hội đồng định giá tài sản thành phố B không định giá được, vì vậy chưa đủ căn cứ xử lý đối với Trương Minh Q, Nguyễn Trọng H, Phạm Trọng N về hành vi trộm cắp tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đang tiếp tục điều tra, xác minh, khi đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Về vai trò của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo P là ngươi trưởng thành, có nhận thức, có khả năng lao động nuôi sống bản thân, nhưng không chiu tim viêc lam ma lai rủ rê các bị cáo H và N thực hiện 02 vụ cướp giật để có tiền tiêu xài nên bị cáo giữ vai trò chính và phải chịu hình phạt cao nhất. Bị cáo H là người được bị cáo P rủ đi cướp giật 02 vụ, bị cáo H rủ bị cáo Q thực hiện 01 vụ. Đồng thời bị cáo H cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật trong cả 03 vụ nên bị cáo giữ vai trò thứ hai trong vụ án. Bị cáo Q được H rủ thực hiện 01 vụ, bị cáo là người điều khiển xe áp sát vào bị hại Phú Thị P để bị cáo H cướp giật chiếc giỏ xách. Việc này thể hiện ý chí tích cực của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo giữ vai trò thứ ba. Bị cáo N tham gia 01 vụ, bị cáo chỉ ngồi trên xe đi cùng bị cáo P và H, không trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo chỉ giữ vai trò thứ yếu trong vụ án này và phải chịu mức hình phạt thấp nhất.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Trương Minh Q, Phạm Trọng N không có tình tiết tăng nặng; Các bị cáo Lê Ngọc P, Nguyễn Trọng H phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình phạt đối với các bị cáo, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; tại phiên tòa bị hại là bà Phú Thị P xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H và Q. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, bị cáo Q và N phạm tội khi dưới 18 tuổi nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo; Bị cáo H phạm tội khi dưới 16 tuổi nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 91, khoản 2 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo H, Q và N phạm tội khi dưới 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo P còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ và lời khai tại phiên tòa của bị cáo cho thấy bị cáo P không có thu nhập và không có tài sản nào khác. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo P.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

+ Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc P cùng bà Nguyễn Thị L là người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Trọng N và ông Nguyễn Tận H là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H đồng ý bồi thường cho bà Võ Thị S số tiền 90.000 đồng (Chín mươi ngàn đồng) nên ghi nhận.

+ Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc P cùng ông Nguyễn Tận H là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H đồng ý bồi thường cho bà Trần Thị S số tiền 780.000đồng (Bảy trăm tám mươi ngàn đồng) mà bà S yêu cầu bồi thường (trong đó, số tiền mà các bị cáo chiếm đoạt là 480.000 đồng và giá trị chiếc điện thoại là 300.000đồng) nên ghi nhận. Đối với 01 chiếc giỏ xách màu nâu Lê Ngọc P đã vứt bỏ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu hồi được, bà S không yêu cầu định giá và bồi thường nên không đặt ra xem xét.

+ Tại phiên tòa, bị hại là bà Phú Thị P không yêu cầu ông Nguyễn Tận H, bà Lý Thị Kim T là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H và bà Trương Thị Mai L là người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Minh Q phải bồi thường cho bà số tiền 500.000 đồng và 300.000 đồng tiền đi làm lại các giấy tờ đã mất, tổng cộng là 800.000 đồng (Tám trăm ngàn đồng) nên không đặt ra xem xét, giải quyết; Đối với 01 giỏ xách của bà Phú Thị P do Trương Minh Q đã vứt bỏ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không thu hồi được, bà P không yêu cầu định giá và bồi thường nên không đặt ra xem xét.

[5] Vê xư ly vât chưng:

- 01 xe mô tô hiệu Wave, biển số 60F3-071.42 do Phạm Trọng N mượn của mẹ ruột là bà Nguyễn Thị L. Do bà L không biết việc N sử dụng xe vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà L là phù hợp.

- 01 xe mô tô hiệu Wave Alpha, biển số 60B1-711.46 do Trương Minh Q mượn của bà Trương Thị Mai L (là mẹ ruột của Q) sau đó Q cho P mượn, do bà L không biết việc Q cho P mượn xe để sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà L là phù hợp.

- 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ hội viên người cao tuổi, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ công nhân công ty Changshin, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho bà Phú Thị P là phù hợp.

Lời trình bày của người bào chữa phù hợp một phần nhận định của Hội đồng xét xử về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, áp dụng quy định pháp luật người dưới 18 tuổi phạm tội nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm; Bị cáo P, ông Nguyễn Tận H và bà Lý Thị Kim T (là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H), bà Trương Thị Mai L (là người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Minh Q) phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm mỗi bị cáo 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc P, Nguyễn Trọng H, Trương Minh Q và Phạm Trọng N phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc P mức án 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù đươc tính từ ngày 05/12/2018.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; đim g khoản 1 Điều 52; Điều 58; khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H mức án 01 (Một) năm 08 (Tám) tháng tù giam. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù giam của bản án số 134/2019/HS-ST ngày 22/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, buộc bị cáo Nguyễn Trọng H phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 10 (Mười) tháng tù giam. Thời hạn tù đươc tính từ ngày 05/12/2018.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điu 58; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Trương Minh Q mức án 02 (Hai) năm tù giam. Thời hạn tù đươc tính từ ngày 05/12/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khon 1 Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Phạm Trọng N mức án 01 (Một) năm tù giam. Thời hạn tù đươc tính từ ngày 05/12/2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 468; Điều 584; Điều 585 Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo Lê Ngọc P cùng bà Nguyễn Thị L là người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Trọng N và ông Nguyễn Tận H, bà Lý Thị Kim T là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H phải bồi thường cho bà Võ Thị S số tiền 90.000 đồng (Chín mươi ngàn đồng).

Buộc bị cáo Lê Ngọc P cùng ông Nguyễn Tận H và bà Lý Thị Kim T là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H phải bồi thường cho bà Trần Thị S số tiền 480.000 đồng và giá trị chiếc điện thoại mà các bị cáo chiếm đoạt là 300.000đồng, tổng cộng là 780.000đồng (Bảy trăm tám mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo P, ông Nguyễn Tận H và bà Lý Thị Kim T (là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng H), bà Trương Thị Mai L (là người đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Minh Q) phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm mỗi bị cáo 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên, người bào chữa, bị hại có mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên và bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 258/2019/HS-ST ngày 13/06/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:258/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về