Bản án 255/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 255/2020/HS-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 228/2020/HSST ngày 06/8/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 276/QĐXXST-HS ngày 31/8/2020 đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm: 1995; Giới tính: Nam; Nơi sinh: tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: A đường số B, khu phố C, phường D, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: không; con ông Trần Văn C và bà Tạ Thị Ngọc L; Tiền án:

không; Tiền sự: không; Tạm giam: 13/3/2020 (có mặt).

- Bị hại: Chị Đoàn Thị M, sinh năm: 1998 Cư trú: đường A, khu phố B, phường C, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trần Thị Mỹ T, sinh năm 1989; Cư trú: đường số A, khu phố B, phường C, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 01/8/2019, T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen-bạc biển số 59X2-411.71 đi một mình từ khu dân cư Êm Đềm, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức rẽ trái vào đường số 4 ra hướng Quốc lộ 1A, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức. Khi T đang lưu thông trên đường số 4 thì phát hiện chị Đoàn Thị M điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 66M1 - 489.35 đi một mình đang lưu thông phía trước cùng chiều có để một điện thoại di động hiệu Samsung J8 màu tím (được bọc bởi một ốp lưng điện thoại bằng nhựa bên trong có 01 thẻ cào điện thoại di động mạng Viettel mệnh giá 100.000 đồng chưa sử dụng và 200.000 đồng), một nửa chiếc điện thoại ở bên trong túi quần còn một nửa chiếc điện thoại ló ra ngoài ở túi quần Jean phía sau bên trái. T điều khiển xe mô tô vượt lên đến trước nhà số 118, đường số 4, khu phố 3, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, T áp sát vào bên trái xe của chị M, dùng tay phải giật lấy điện thoại di động trên của chị M và nhanh chóng điều khiển xe mô tô tẩu thoát. Sau đó, T đến cửa hàng sửa chữa máy vi tính “Thiều Điệp” địa chỉ số 968, Quốc lộ 1A, khu phố 5, phường Linh Trung, quận Thủ Đức do anh Thiều Văn Điệp làm chủ, cầm chiếc điện thoại vừa cướp giật được của chị Mơ với giá 700.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. Sau khi, bị giật điện thoại, chị M đến Công an phường Linh Xuân, quận Thủ Đức trình báo. Đến ngày 12/3/2020, T đang đi trên đường số 2, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức thì bị tổ tuần tra của Công an phường Linh Xuân, quận Thủ Đức phát hiện và mời về trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, T đã khai nhận hành vi cướp giật tài sản của mình. Nguyên nhân do không có tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài.

Kết luận định giá tài sản số 2009 ngày 01/11/2019 đã kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J8 màu tím trị giá 2.500.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại di động bằng nhựa trị giá là 30.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 2.530.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen-bạc biển số 59X2-411.71, số máy:

HC12E-3253064, số khung: 1209BY-452983 (Trần Văn T giao nộp);

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J8 màu tím (chưa thu hồi được);

- 01 ốp lưng bằng nhựa (chưa thu hồi được);

- Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 200.000 đồng (chưa thu hồi được);

- 01 thẻ cào điện thoại di động mạng Viettel mệnh giá 100.000đ chưa sử dụng (chưa thu hồi được).

Tại bản Cáo trạng số 228/CT – VKS ngày 31/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân quận Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017; đề nghị áp dụng điều luật đã truy tố, áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.

Bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, lời sau cùng bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 01/8/2019, Trần Văn T đã có hành vi điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen-bạc biển số 59X2-411.71 công khai nhanh chóng giật 01 điện thoại di động hiệu Samsung J8 màu tím có ốp lưng bằng nhựa của chị Đoàn Thị Mơ tại địa chỉ trước nhà số 118, đường số 4, khu phố 3, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá 2.530.000 đồng.

Hành vi công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị nêu trên rồi nhanh chóng tẩu thoát mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu T tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự. Hành vi dùng xe mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Việc truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã T khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tài sản chiếm đoạt thiệt hại không lớn và đã được bị cáo tự nguyện đóng tiền khắc phục hậu quả; Bị cáo có cha là người có công với cách mạng là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên cần giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Chị Đoàn Thị M yêu cầu bồi thường số tiền 2.530.000 đồng là tổng tài sản chị Mơ bị chiếm đoạt. Bị cáo đã tự nguyện đóng tiền bồi thường.

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen-bạc biển số 59X2-411.71, số máy: HC12E-3253064, số khung: 1209BY-452983, qua xác minh được biết chị Trần Thị Mỹ Thuận (chị ruột của T) đứng tên sở hữu. Ngày 01/8/2019, T mượn xe của chị Thuận để đi chơi, chị Thuận không biết T sử dụng xe trên để thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại xe cho chủ sở hữu.

- Đối với các vật chứng khác bao gồm: Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 200.000 đồng; 01 thẻ cào điện thoại di động mạng Viettel mệnh giá 100.000 đồng chưa sử dụng do chưa thu hồi được. Hiện mới chỉ có lời khai của bị hại không được bị cáo thừa nhận đồng thời bị hại cũng không có yêu cầu bồi thường nên không có cơ sở xem xét.

- Đối với chủ cửa hàng “Thiều Điệp” là ông Thiều Văn Điệp không thừa nhận việc có nhận cầm cố chiếc điện thoại do bị cáo phạm tội mà có. Qua đối chất cũng không làm rõ được nội dung này nên không có cơ sở xử lý trách nhiệm của ông Thiều Văn Điệp.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

2- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn T: 03 (ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 13/3/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 584; 585 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Trần Văn T bồi thường cho chị Đoàn Thị M số tiền 2.530.000 (Hai triệu năm trăm ba mươi nghìn) đồng. Theo biên lai thu tiền số 0003177 ngày 11/9/2020 và số 0003179 ngày 16/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+ Trả lại cho chị Trần Thị Mỹ Thuận 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đen-bạc biển số 59X2-411.71, số máy: HC12E-3253064, số khung: 1209BY-452983.

(Theo phiếu nhập kho số NKT/2020/201, ngày 07/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

4- Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5- Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 255/2020/HS-ST ngày 17/09/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:255/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về