Bản án 255/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 255/2019/HSST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/11/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 259/2019/HSST ngày 05/11/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 258/2019/QĐXX-HS ngày 15/11/2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn D. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.

Sinh năm 1993. Tại Điện Biên

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Đội 2, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Dân tộc:Thái; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ văn hóa: 9/12

Con ông: Lò Văn T sinh năm 1972; Trú tại: Đội 2, xã Th, huyện Đ, con bà: Lò Thị Ph, sinh năm 1972, hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam Tân L, tỉnh Phú T. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền sự: Không. Tiền án: Có 02 tiền án. Nhân thân: Ngày 17/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Ngày 28/6/2015 chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 01/9/2016 phạm tội mới. Ngày 21/11/2016 bị Tòa án ND huyện Đ xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" đã bị áp dụng tình tiết tái phạm. Ngày 25/01/2019 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Bản án này hiện chưa được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 25/9/2019, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/9/2019 Lò Văn D đi bộ từ nhà tại đội 2, xã Th, huyện Đ đến đội 18, xã Th để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, D đã gặp và nhờ một người đàn ông tên T mua hộ 02 viên Methamphetamine màu hồng được gói bằng giấy bạc màu vàng và 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 150.000đ. Sau khi nhận ma túy từ T, D nhặt một mảnh ni lon màu trắng gói 2 gói ma túy lại và cầm ở tay phải đi bộ về nhà. Đi được một đoạn, D lấy một ít Heroine ra sử dụng bằng hình thức chích. Sử dụng xong, D gói số ma túy lại như cũ cất vào cạp quần lót đang mặc. Hồi 17 giờ cùng ngày, khi D đang đứng ở vệ đường thuộc đội 18, xã Th, huyện Đ thì bị tổ công tác công an huyện Đ bắt quả tang thu giữ tại cạp quần lót đang mặc trên người D 01 gói Heroine và 01 gói bên trong chứa 2 viên Methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 25/9/2019 đã xác định: Số cục bột màu trắng thu giữ của bị cáo Lò Văn D có khối lượng là 0,11 gam, trích 0,05 gam gửi giám định.

02 viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn D có khối lượng 0,2 gam, trích 0,1 gam gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 936/GĐ-PC09 ngày 02/10/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn D là chất ma túy loại Heroine. Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn D gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 253/CT-VKSDB ngày 05/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm o Khoản 2 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm o Khoản 2 Điều 249; Điểm S Khoản 1 Điều 51/Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 5 năm 6 tháng đến 6 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Lò Văn D là đối tượng nghiện chất ma túy. Ngày 25/9/2019 Lò Văn D đi bộ từ nhà tại đội 2, xã Th, huyện Đ đến đội 18, xã Th để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây D đã gặp và nhờ một người đàn ông tên T mua hộ 02 viên Methamphetamine màu hồng được gói bằng giấy bạc màu vàng và 01 gói Heronie được gói bằng nilon màu trắng với giá 150.000đ. Sau khi nhận ma túy từ T, D nhặt một mảnh ni lon màu trắng gói 2 gói ma túy lại và cầm ở tay phải đi bộ về nhà. Đi được một đoạn, D lấy một ít Heroine ra sử dụng bằng hình thức chích. Sử dụng xong, D gói số ma túy lại như cũ cất vào cạp quần lót đang mặc. Hồi 17 giờ cùng ngày, khi Dũng đang đứng ở vệ đường thuộc đội 18, xã Th, huyện Đ thì bị tổ công tác công an huyện Đ bắt quả tang thu giữ tại cạp quần lót đang mặc trên người Dũng 01 gói Heroine và 01 gói bên trong chứa 2 viên Methamphetamine. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,11 gam Heroine và 0,2 gam Methamphetamine, kết luận giám định là Heroine và Methamphetamine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

Với hành vi tàng trữ 0,11 gam Heroine và 0,2 gam Methamphetamine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo. Theo quy định tại Điều 4 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015.Tổng khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,31 gam được quy định tại cùng Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015. Vì vậy hành vi tàng trữ hai chất ma túy có tổng khối lượng 0,31 gam của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Khối lượng hai chất ma túy bị cáo tàng trữ thuộc Khoản 1 Điều 249/BLHS nhưng bị cáo đã bị xử phạt 30 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" vào ngày 17/9/2013 và 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" vào ngày 21/11/2016 đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng "Tái phạm". Ngày 25/01/2019 ra trại, bản án này hiện chưa được xóa án tích. Bị cáo lại phạm tội mới với lỗi cố ý cho nên phải chịu tình tiết định khung tăng nặng "Tái phạm nguy hiểm" theo điểm o Khoản 2 Điều 249/BLHS.

Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp rất nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy: Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện xử phạt hai lần về các tội liên quan đến mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy. Cả hai bản án này đến nay chưa được xóa án tích. Bị cáo đã phạm tội rất nhiều lần cho thấy nhân thân xấu. Khi được trở về địa phương không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục phạm tội, điều này cho thấy bị cáo coi thường pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015.

HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tiếp tục cai nghiện cải sửa lỗi lầm trở thành người công dân tốt cho gia đình và xã hội.

[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma túy. Nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông tên T bị cáo đã gặp tại đội 18, xã Th theo bị cáo khai đã đi mua hộ Heroine và Methamphetamine cho bị cáo, do không biết rõ địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.

[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu hủy 0,11 gam Heroine đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại và 0,2 gam Methamphetamine đã trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định tại Điều 136/BLTTHS và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm 0 Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Xử phạt bị cáo 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (25/9/2019).

3. Vật chứng: Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy 0,11 gam heroine đã trích 0,05 gam gửi giám định không hoàn lại. 0,2 gam Methamphetamine trích 0,1 gam gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Điện Biên vào ngày 07/11/2019).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/11/2019)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 255/2019/HSST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:255/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về