TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 255/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 499/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn – Tranh chấp nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 478/2019/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thu T, sinh năm 1974.
- Bị đơn: Anh Lâm Phước T, sinh năm 1979.
Cùng trú tại: Ấp C, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau.
(Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt – Bị đơn vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chị Lê Thu T trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh T chung sống với nhau từ năm 2000, có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục truyền thống nhưng không có đăng ký kết hôn.
Trong thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do anh T có hành vi bạo lực gia đình, có lời lẽ xúc phạm đến chị. Mặc dù, mâu thuẫn đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay, nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.
Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Lâm Trường V, sinh ngày 27/01/2004 (Giới tính: Nam) và Lâm Linh H, sinh ngày 18/4/2002 (Giới tính: Nữ). Hiện, các cháu do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng các cháu. Yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi các con mỗi tháng với số tiền 3.000.000 đồng, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay, chị yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định.
Đối với anh Lâm Phước T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, thể hiện chị T yêu cầu ly hôn với anh T, nhưng anh T vẫn không có văn bản ý kiến trình bày đối với các yêu cầu khởi kiện của chị T.
Vụ án đã được Tòa án tiến hành công khai chứng cứ và lập biên bản không tiến hành hòa giải được, do bị đơn vắng mặt.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ghi nhận ý kiến cháu Lâm Linh H và cháu Lâm Trường V có nguyện vọng được sống chung với chị Lê Thu T.
Tại phiên tòa, bị đơn là anh T vắng mặt, nguyên đơn là chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và bảo lưu ý kiến tại đơn khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp về hôn nhân và gia đình; bị đơn có nơi cư trú tại huyện Trần Văn Thời nên thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Do bị đơn vắng mặt, nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.
[3] Chị T có yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt. Anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Xét xử vắng mặt nguyên và bị đơn là phù hợp.
[4] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Đơn xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xác định chị T và anh T không có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lợi An và đồng thời, chị T cũng xác định chị và anh T chung sống với nhau từ năm 2000, không có đăng ký kết hôn. Mặc dù, chị T và anh T có đủ điều kiện kết hôn nhưng anh, chị không đăng ký theo quy định nên việc kết hôn không thỏa mãn về mặt hình thức. Nay, chị T yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân do có nhiều mâu thuẫn, mục đích hôn nhân không đạt được. Đồng thời, hôn nhân giữa chị T và anh T có vi phạm về mặt hình thức nên không được công nhận là vợ chồng phù hợp với quy định tại Điều 9; Điều 14; Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp.
[5] Về con chung: Chị T cung cấp 2 giấy khai sinh thể hiện giữa chị T và anh Tấn có 02 người con chung tên Lâm Trường V, sinh ngày 27/01/2004 (Giới tính: Nam) và Lâm Linh H, sinh ngày 18/4/2002 (Giới tính: Nữ). Hiện, các cháu do chị T chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp, cuộc sống của các cháu đã ổn định. Vì vậy, nhằm ổn định cuộc sống của các cháu, không bị ảnh hưởng tâm sinh lý của việc cha, mẹ ly hôn nên chị T yêu cầu tiếp tục được nuôi dưỡng con chung là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của các cháu. Anh T không có ý kiến phản đối nên yêu cầu nuôi dưỡng con chung của chị T là có cơ sở chấp thuận. Phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[6] Về cấp dưỡng: Tại đơn khởi kiện, cũng như đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, chị T yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng với số tiền 3.000.000 đồng, cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Đối với anh T cũng không có văn bản phản đối việc chị T yêu cầu anh Tấn cấp dưỡng nuôi con chung. Xét, theo quy định tại Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: "Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con”, do đó, việc chị T yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định pháp luật. Về mức cấp dưỡng, theo quy định tại Điều 116 và Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và hướng dẫn tại khoản 2, mục III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì mức cấp dưỡng tối thiểu không dưới ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử (Ngày 14/10/2019) đối với 01 người con, mức lương cơ sở hiện nay là 1.490.000 đồng. Do đó, chị T yêu cầu anh Tấn phải cấp dưỡng 2 con mỗi tháng với số tiền 3.000.000 là cao, so với quy định. Như vậy, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các cháu mỗi tháng với số tiền 745.000 đồng/tháng/cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 14/10/2019.
[7] Về tài sản chung và nợ: Do anh T cố tình vắng mặt. Không có ý kiến trình bày. Chị T xác định giữa chị và anh T không có tài sản chung và không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết. Trường hợp, các bên đương sự có tranh chấp về chia tài sản và nợ chung sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[8] Về án phí: Buộc chị T phải chịu số tiền 300.000 đồng (án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm); anh T phải chịu số tiền 300.000 đồng (án phí cấp dưỡng), theo Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 177; Điều 179; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 235; Điều 273; Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng: Khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 110; Điều 116; Điều 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Lê Thu T và anh Lâm Phước T là vợ chồng.
2. Về con chung: Chị Lê Thu T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên: Lâm Trường V, sinh ngày 27/01/2004 (Giới tính: Nam) và Lâm Linh H, sinh ngày 18/4/2002 (Giới tính: Nữ).
3. Về cấp dưỡng: Buộc anh Lâm Phước T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung tên: Lâm Trường V, sinh ngày 27/01/2004 (Giới tính: Nam) và Lâm Linh H, sinh ngày 18/4/2002 (Giới tính: Nữ), số tiền: 745.000 đồng/tháng/1cháu cho đến khi cháu V và cháu H đủ 18 tuổi. Thời điểm cấp dưỡng được tính kể từ ngày 14/10/2019.
Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp, bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Khi thấy cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí: Số tiền 300.000 đồng mà chị Lê Thu T đã dự nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003464 ngày 23/7/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, nay được chuyển thu đối trừ. Buộc anh Lâm Phước T phải nộp số tiền 300.000 đồng án phí cấp dưỡng (Chưa nộp).
5. Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.
6. Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 255/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Số hiệu: | 255/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về