TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 254/2019/HS-PT NGÀY 16/09/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Vào ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 200/TLPT-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo: Y T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/04/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1053/2019/QĐXXPT-HS ngày 27 tháng 8 năm 2019.
- Bị cáo kháng cáo:
Họ tên: Y T; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 18/01/2001 tại tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Ê Đê; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm nông; nơi cư trú: Buôn S, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; con ông: R D1 - sinh năm 1980, đã bỏ đi nơi khác; con bà: H’Th1 KSơr - sinh năm 1982, trú tại Buôn S, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; bị cáo chưa có vợ, con. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 06/11/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Phạm Đình Q (đã chết).
Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Th – sinh năm 1936 và bà Đặng Thị T2 – sinh năm 1941 (Bà Đặng Thị T2 ủy quyền cho ông Phạm Th); địa chỉ: Thôn 12, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk, ông Th có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Chu Đức L1 – Văn phòng Luật sư Đức L1; có mặt.
- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lương Văn Q1 – sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn 4, xã E1, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
2. Ông Y’X1 Mlô (Y’S1 Mlô) – sinh năm 1994; địa chỉ: Buôn S, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
3. Ông Phạm Đình H; địa chỉ: Thôn 14, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
4. Bà H’Th1 Ksơr (mẹ ruột của bị cáo) – sinh năm 1982; địa chỉ: Buôn S, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 30 phút 05/11/2018, anh Lương Văn Q1 (sinh năm 1988), điều khiển xe môtô Dream biển kiểm soát 47P2-3942 chở Y T và anh Y X (sinh năm 1994) theo hướng từ xã E1 đến buôn S, trên đường đi Y T mua một cái liềm nhằm mục đích đưa về gia đình cho người nhà cắt cỏ. Khi chạy xe qua chòi thu phí cầu treo thuộc địa phận thôn 12, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk, Lương Văn Q1 không trả tiền phí qua cầu mà tiếp tục chạy được khoảng 10m thì xe môtô hết xăng nên dừng lại, anh Lương Văn Q1 và anh Y X xuống kiểm tra xe còn một mình Y T cầm cái liềm đã mua trước đó đi đến nói chuyện với ông Thái Văn K1 (sinh năm 1958, là người thu phí qua cầu treo). Tại đây, Y T gặp anh Phạm Đình Q (sinh năm 1990) và anh Phạm Đình H (sinh năm 1997) đang đứng nói chuyện với ông Thái Văn K1. Lúc này giữa anh Phạm Đình Q và Y T xảy ra mâu thuẫn chửi nhau. Sau đó Y T trả tiền qua cầu cho ông Thái Văn K1 rồi quay lại cùng anh Y X và anh Lương Văn Q1 đẩy xe môtô qua cầu đến tiệm tạp hóa của ông Lê Quốc D tại địa chỉ thôn 14, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk để mua xăng, Y T vẫn cầm theo chiếc liềm mới mua trên tay. Đang đứng mua xăng thì anh Phạm Đình H điều khiển xe mô tô BKS 47F6 - 8025 chở anh Phạm Đình Q dừng trước vị trí anh Lương Văn Q1, anh Y X và Y T đang đứng. Anh Phạm Đình H ngồi trên xe không cầm theo gì còn anh Phạm Đình Q cầm theo một cây gậy gỗ đi đến nói: “Lúc nãy chúng mày nói gì, có thích chửi không?” rồi dùng gậy gỗ đánh anh Lương Văn Q1 và Y T. Sau khi bị anh Q đánh trúng vào vùng đầu, vùng vai thì Y T bực tức dùng liềm đang cầm sẵn trên tay chém một cái trúng vùng nách trái của anh Phạm Đình Q. Lúc này, anh trai của anh Phạm Đình Q là anh Phạm Đình T1 (sinh năm 1976) điều khiển xe mô tô BKS 47M9 - 1461 đi làm ngang qua thấy anh Q và Y T đang đánh nhau thì điều khiển xe mô tô chạy đến tông trúng anh Y X đang đứng làm anh Y X té ngã (gây thương tích nhẹ), sau đó anh Phạm Đình T1 nhặt một khúc cây gỗ dưới đất đánh trúng vùng lưng Y T thì Y T vứt liềm tại hiện trường rồi bỏ chạy. Còn anh Q1 và anh Y X khi bị đánh đã bỏ chạy. Mọi người đưa anh Phạm Đình Q đến bệnh viện cấp cứu nhưng đã bị tử vong. Sau khi gây án Y T đến Công an xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk để đầu thú.
Tại Bản kết luận pháp y tử thi số 1027/GĐPY ngày 30/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: “Nguyên nhân tử vong của Phạm Đình Q là vết thương vùng ngực nách trái làm đứt xương sườn 5, 6, 7, 8 và thương tổn phổi trái gây nên sốc mất máu và suy tuần hoàn cấp không hồi phục. Vật tác động vật cứng có lưỡi sắc, mũi nhọn tác động vào ngực – nách trái nạn nhân theo hướng từ trái sang phải”.
Tại Bản kết luận pháp y thương tích số 1337/PY-TgT ngày 22 tháng 11 năm 2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận: “Tỉ lệ phần trăm thương tích của bị cáo Y T là 04% tạm thời, gồm: Chấn thương thái dương trái 03%, vật tác động: Cứng, tày; Chấn thương cơ đenta trái 01%, vật tác động: Cứng, tày”.
Khám nghiệm hiện trường: Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại khu vực nền đường liên xã E2 – xã E1, trước cửa tiệm tạp hoá của ông Lê Quốc D thuộc thôn 14, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk. Lấy tiệm tạp hóa làm trung tâm hiện trường, hướng Nam tiếp giáp tiệm sửa xe của ông Lê Quốc D, hướng Bắc tiếp giáp tiệm cám gạo của ông Lê Văn H1, hướng Đông cách 7,2m là đường liên xã và cách 15m là Công ty TNHH MTV XD H2.
Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ: 01 (một) đôi dép màu xanh, quai xám, có chữ “LUOEU”, số 40; 01 (một) đôi dép màu đen, quai xám, có chữ “SPORT”, số 41; 01 (một) đôi dép màu đen, số 40; 01 (một) đôi dép xỏ ngón màu đen, quai xanh, có chữ “HA”; 01 (một) đôi dép xỏ ngón màu nâu, có chữ “N.YORK”; 01 (một) gậy gỗ dài 132cm, đường kính 2,7cm; 01 (một) cây gỗ dài 99cm, đường kính 3,5cm; 01 (một) áo sơ mi dài tay màu hồng, tại đường chỉ nách áo trái cách gấu áo 23cm có vết rách nằm chéo dài 9cm, bờ mép sắc nhọn (Có đặc điểm như trong biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 05/11/2018); 01 (một) cái liềm có cán bằng kim loại màu xanh dài 37,8cm, đường kính 2,5cm. Phần lưỡi có mũi nhọn, một mặt cắt dài 26,2cm, phần rộng nhất 3,8cm (Đã niêm phong).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
[1] Căn cứ khoản 2 Điề ều 91; Điều 98; 123, điểm b, s, Điều 1, 2, Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 Tuyên bố: Bị cáo Y T phạm tội “Giết người”.
Xử phạt: Bị cáo Y T 8 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 06/11/2018.
Ngoài ra, bản án còn tuyên quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/4/2019, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 24/4/2019, đại diện hợp pháp của bị hại là ông Phạm Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét nguyên nhân, tính chất hành vi phạm tội và lỗi của người bị hại, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại, sửa bản án hình sự sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở kết luận: Vào khoản 15h30 ngày 05/11/2018, tại khu vực trước cửa tiệm tạp hóa của ông Lê Quốc D, thuộc thôn 14, xã E2, huyện E3, tỉnh Đắk Lắk, do anh Phạm Đình Q dùng cây gỗ đánh nên bị cáo Y T dùng liềm chém một nhát trúng vào vùng nách trái của anh Phạm Đình Q, làm anh Q tử vong. Theo kết luận giám định pháp y về tử thi số 1027/GĐPY ngày 30/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: “Nguyên nhân tử vong của Phạm Đình Q là vết thương vùng ngực nách trái làm đứt xương sườn 5, 6, 7, 8 và thương tổn phổi trái gây nên sốc mất máu và suy tuần hoàn cấp không hồi phục”. Với hành vi và hậu quả nêu trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên bố bị cáo Y T phạm tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và của đại diện bị hại, nhận thấy: Bị cáo bị truy tố, xét xử về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Sau khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, tác động gia đình bồi thường 80.000.000 đồng theo yêu cầu của gia đình bị hại, được gia đình bị hại bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt; đồng thời khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo mới 17 tuổi 9 tháng 17 ngày, nên án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết được quy định tại điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 91, Điều 101của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo 08 năm tù là không nặng, đúng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo và đại diện bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện của người bị hại; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
[3]. Các Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Y T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Từ nhận định trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Y T và kháng cáo của đại diện người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Y T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Y T 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 06/11/2018.
2. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Y T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo quyết định tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 12/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 254/2019/HS-PT ngày 16/09/2019 về tội giết người
Số hiệu: | 254/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về