Bản án 25/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

Vũ Đức Đ, tên gọi khác: không, sinh năm 1970, tại K A, Hải Phòng.

Nơi cư trú: Cụm dân cư Đ Ph, phường V Đ, quận K A, Thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; đảng phái, đoàn thể: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Đức M (đã chết) và bà Ngô Thị L; bị cáo có vợ là Phan Thị Thúy Ng (đã ly hôn) có một con chung sinh năm 2002. Bị cáo hiện chung sống như vợ chồng với Đặng Thị L, sinh năm 1988, có một con chung sinh năm 2016.

- Tiền sự: không.

- Nhân thân:

+ Ngày 26/9/1990 TAND thành phố Hải Phòng xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản công dân, đã được xóa án tích.

+ Năm 2007 UBND quận K A, thành phố Hải Phòng quyết định đưa vào cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục, lao động và xã hội thành phố Hải Phòng, chấp hành xong ngày 14/8/2008.

+ Năm 2010 UBND quận K A, thành phố Hải Phòng quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện tại Trung tâm giáo dục, lao động xã hội số II. Ngày 16/5/2015 Trung tâm bàn giao Vũ Đức Đ cho gia đình quản lý để điều trị bệnh.

- Tiền án: Ngày 03/01/2018 TAND huyện A D, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Châp hành xong hình phạt tù ngày 21/11/2019. Chấp hành xong án phí HSST ngày 20/6/2018.

Bị bắt từ ngày 06/01/2020 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ 30 phút, ngày 06/01/2020, tại bản P Kh, xã L L, huyện VH, tỉnh Sơn La. Tổ công tác công an huyện VH kiểm tra phát hiện bắt quả tang Vũ Đức Đ tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ trong túi quần của bị cáo là 30 viên nén màu hồng, bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, Vũ Đức Đ khai nhận đó là Methamphetamine (Ma túy tổng hợp) được gói bằng nilon màu trắng và nilon màu đỏ, bên ngoài được gói bằng một lớp giấy. Đ khai nhận, số ma túy trên Đ đã mua được của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ ở khu vực đường tàu An Dương với giá 1.000.000 đồng vào ngày 05/01/2020. Sau khi mua được ma túy, Đ lấy ra 01 viên để sử dụng. Số ma túy còn lại, Đ gói lại, cất vào túi quần rồi đi xe khách lên huyện VH thăm mẹ vợ. Khoảng 10 giờ ngày 06/01/2020 Đ lại bắt xe khách BKS 33M – 1565 quay về nhà. Khi xe khách đi đến địa phận bản P Kh, xã L L thì bị kiểm tra phát hiện bắt giữ. Cơ quan điều tra đã niêm phong vật chứng, tạm giữ của Đ số tiền 800.000 đồng và dẫn giải bị cáo về Cơ quan điều tra để xử lý. Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành cân tịnh 30 viên nén màu hồng thu giữ của Vũ Đức Đ xác định có khối lượng 2,75 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký kiệu Đ.

Kết luận giám định số 196/KLMT ngày 09/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận "Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,75 gam; Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 2,75 gam Methamphetamine. Hoàn lại 2,59 gam Methamphetamine” Cáo trạng số 24/CT – VKS ngày 01/4/2020 của VKSND huyện VH, truy tố Vũ Đức Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Tại phiên tòa, kiểm sát viên vẫn bảo vệ nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo, đề nghị HĐXX xem xét: Tuyên bố Vũ Đức Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy * Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt: Vũ Đức Đ từ 30 đến 36 tháng tù.

+ Không phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu để tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 2,59 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Đức Đ.

+ Trả lại bị cáo số tiền 800.000 đồng.

+ Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do nghiện ma túy, Vũ Đức Đ đã gặp và hỏi mua được của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ 30 viên Hồng Phiến với giá 1.000.000 đồng. Trên đường đi xe khách từ VH về nhà thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 BLHS. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản ghi lời khai, hỏi cung, bản tự khai của bị cáo và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa.

[2] Tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo nghiện ma túy, phạm tội nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị bắt buộc cai nghiện, lại phạm tội trong khi chưa được xóa án tích. Cần xử phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có cả bố và mẹ đẻ là người có công với cách mạng, nên được HĐXX xem xét cho hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.

[4] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VH, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VH, Kiểm sát viên trong qua trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. HĐXX xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án Điều tra viên, Kiểm sát viên chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 BLHS, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Xét thấy bị cáo nghiện ma tuý, không có khả năng thi hành, nên không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Vật chứng của vụ án: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 2,59 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Đức Đ là những vật bị cấm lưu hành hoặc không có giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu để tiêu hủy.

Số tiền 800.000 đồng thu giữ của bị cáo, là tài sản không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, cần tuyên trả lại bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phí.

[7]Về nguồn gốc chất ma túy: Người đàn ông khoảng 40 tuổi đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, địa chỉ, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

Bị cáo phạm tội, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Đức Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt: Vũ Đức Đ 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tình từ ngày 06/01/2020.

Không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Áp dụng các điểm c khoản 1 điều 47 BLHS, điểm a,c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 2,59 gam Methamphetamine; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vũ Đức Đ.

phí.

+ Trả lại bị cáo số tiền 800.000 đồng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án Theo biên bản giao vật chứng số: 45/BBVC, và Biên lai thu tiền số 0003507 ngày 09 tháng 4 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện VH.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 07/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về