Bản án 25/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 25/2019/HS-ST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 23/2019/HSST ngày 04 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2019/QĐXXST-HS ngày 09/5/2019 đối với bị cáo:

Bùi Thanh M; Sinh năm 1999 tại tỉnh Đ; HKTT: ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Bùi Thanh H; sinh năm: 1974 và bà Nguyễn Thị C; sinh năm 1980; tiền sự: Ngày 25/07/2018, Bùi Thanh M bị công A thị trấn L, huyện Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 116/QĐ-XPVPHC về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; tiền án: Không; bị cáo Bùi Thanh M bị bắt tạm giam ngày 11/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Bà Rịa (bị cáo có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Công T, sinh năm: 1974 Nơi cư trú: Thôn P, xã H, thị xã P, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Người chứng kiến:

Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1974 Nơi cư trú: Khu phố 2, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15 giờ ngày 27/12/2018, Bùi Thanh M gọi điện thoại cho 01 người tên A (không rõ lai lịch) hỏi mua 15 viên ma túy thuốc lắc để sử dụng. A hẹn M khoảng 17 giờ cùng ngày đến khu vực cầu L, phường H, thành phố B để giao dịch. Tại đây, A gặp và đưa cho M 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa 10 viên nén hình tam giác màu xanh và 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa 05 viên nén hình tam giác màu xanh, có logo in chữ “EA7”, M trả cho A số tiền 4.500.000đ (bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Sau đó, M cất 02 gói ma túy vào túi quần phía trước bên trái rồi đến nhà bạn gái là Phạm Thị Kim H, chở nhau đi ăn uống. Đến khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, khi M chở H đến đoạn bùng binh phường L (gần trường Cao đẳng sư phạm Bà Rịa- Vũng Tàu) thì bị Phòng CSĐT tội phạm về ma túy- Công An tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phối hợp cùng công an phường L, thành phố B kiểm tra, bắt quả tang Bùi Thanh M đang tàng trữ 02 gói nylon hàn kín trong túi quần phía trước bên trái của M, trong đó có 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa 10 viên nén hình tam giác màu xanh và 01 gói nylon hàn kín bên trong có chứa 05 viên nén hình tam giác màu xanh, có logo in chữ “EA7”.

Tại bản kết luận giám định số 04/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 05/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận: “15 (mười lăm) viên nén màu xanh hình tam giác-trên một bề mặt có in ký tự “EA7”, được niêm phong trong một phong bì màu vàng, có hình dấu của Công an phường L - CATP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Hoàng Đăng L, Bùi Thanh M, Phạm Thị Kim H, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Văn V, Lê Đức D, gửi đến giám định có tổng khối lượng 5,9790 gam, là chất ma túy, loại MDMA Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo M đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và không có ý kiến gì đối với Bản kết luận giám định 04/GĐMT- PC09 (Đ4) ngày 05/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKS ngày 02/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa truy tố bị cáo Bùi Thanh M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. Bà Rịa vẫn giữ nguyên quA điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo M với mức án từ 05 (năm) năm tù đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù; về xử lý vật chứng: đề nghị HĐXX tịch thu toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, vì bị cáo sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy; hoàn lại cho bị cáo số tiền 8.000.000đ, vì số tiền này của cá nhân bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội Tại phiên tòa, bị cáo công nhận Viện kiểm sát truy tố đúng người, đúng tội, bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ mức án cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với diễn biến của vụ án đã xảy ra, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được và biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ trong vụ án, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn, từ đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ 15 phút, ngày 27/12/2018, tại khu phố 7, phường L, thành phố B, tỉnh BR-VT, Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng phối hợp với Công an phường L, thành phố B, bắt quả tang Bùi Thanh M đang có hành vi tàng trữ 5,9790 gam, là chất ma túy, loại MDMA. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, hành vi của bị cáo không những ảnh hưởng đến đời sống kinh tế trên địa bàn thành phố, làm mất an ninh trật tự tại địa phương mà còn là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tệ nạn xã hội và tội phạm khác liên quan đến ma túy. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu chí bản thân mà vẫn lao vào con đường phạm tội nên phải có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đó là cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không [4.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự : Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS;

khon 1 Điều 47 của BLHS:

- Tịch thu tiêu hủy : 01 (một) phong bì màu vàng, hoàn lại sau giám định được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu niêm phong dán kín, tem niêm phong ghi vụ số 04 ngày 05/01/2019, có dấu mộc đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, chữ ký của P.Trưởng phòng Lê Bá H, giám định viên Võ Thanh H trên tem niêm phong.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám, số imei: 354376061917726 vì bị cáo sử dụng điện thoại này để liên lạc mua ma túy sử dụng.

- Hoàn lại cho bị cáo: Số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng) là tiền của bị cáo

[6] Các vấn đề khác:

- Đối với đối tượng tên A có hành vi bán chất ma túy cho M, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bà Rịa tiếp tục xác minh, khi có kết quả sẽ xử lý sau.

- Đối với Phạm Thị Kim H không biết việc Bùi Thanh M tàng trữ ma túy trong người nên không có căn cứ xử lý.

- Đối với hai lần M mua ma túy của A trước đó do không bắt được quả tang, không thu giữ được vật chứng để giám định nên không đủ căn cứ xử lý; Đối với lời khai ban đầu M khai nhận ma túy do A gửi để nhờ M bán cho một người (không rõ lai lịch) giúp A thì A sẽ trả tiền công cho M, M nhận lời nhưng không thực hiện, do đó không đủ căn cứ xử lý M về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

[7] Về án phí HSST: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố bị cáo Bùi Thanh M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015

[2] Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS năm 2015

- Xử phạt bị cáo Bùi Thanh M 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11 tháng 01 năm 2019

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS;

khon 1 Điều 47 của BLHS;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì màu vàng, được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu niêm phong dán kín, tem niêm phong ghi vụ số 04 ngày 05/01/2019, có dấu mộc đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, chữ ký của P.Trưởng phòng Lê Bá H, giám định viên Võ Thanh H trên tem niêm phong.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, màu xám, số imei: 354376061917726 , đây là điện thoại bị cáo dùng để sử dụng cá nhân và liên lạc để mua ma túy sử dụng.

- Hoàn trả cho bị cáo số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng) là số tiền của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Toàn bộ vật chứng hiện Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Bà Rịa đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 32/BB.THA và Biên lai thu tiền số: TT/2012/0009958 cùng ngày 03/5/2019)

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm 5. Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (23/5/2019) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-ST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về