Bản án 25/2019/HSST ngày 17/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 17/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 22/2019/HSST ngày 19 tháng 3 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Doanh Thiêm Ph, sinh năm 1963, tại Bắc Kạn HKTT: Thôn 2, xã Đ 10, huyện B, tỉnh B. Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ văn hóa: 04/10; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Doanh Thăng L (đã chết) và bà Mã Thị Ph (đã chết); Bị cáo có vợ và 02 người con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1992. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/01/2019 cho đến nay (Có mặt).

- Người làm chứng: Điểu Ph, sinh năm 1995 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nông Thị H, sinh năm 1964 (vắng mặt).

Đa chỉ: Thôn 2, xã Đ10, huyện B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 18/01/2019, Doanh Thiêm Ph điều khiển xe Mô tô biển số: 93T1-1846 đi từ nhà tại thôn 2, xã Đ10, huyện B, tỉnh B đến “Làng M” thuộc xã Đ, huyện T, tỉnh Đ để mua ma túy về sử dụng. Khi đi tới khu vực vườn điều giáp ranh với xã Đ, huyện T thì Ph dừng xe và đi bộ đến gặp một người phụ nữ mua 200.000đ ma túy. Sau khi mua xong, Ph lấy ra một ít để sử dụng, số còn lại cất giấu vào ống quần bên phải rồi điều khiển xe đi về. Khi về tới địa phận thôn Thôn Đ, xã Đ, huyện B thì bị lực lượng Công an kiểm tra lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói ma túy có khối lượng 0,134gam, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKS-BĐ ngày 19/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo Doanh Thiêm Ph về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Doanh Thiêm Ph phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 01 (một) năm, 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm, 06 (sáu) tháng tù; Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; tuyên trả lại cho bà Nông Thị Huyện xe Mô tô nhản hiệu SUZUKI, màu đen; BKS: 93T1-1846 cùng 01 đăng ký xe mô tô số: 0057136 mang tên Doanh Thiêm Ph; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số Imei 99538245; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo Doanh Thiêm Ph thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt, vật chứng và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 18/01/2019, Doanh Thiêm Ph điều khiển xe Mô tô biển số: 93T1-1846 đến khu vực “Làng M” thuộc xã Đ, huyện T tỉnh Đ mua ma túy về sử dụng. Đến nơi bị cáo gặp một người phụ nữ khoảng 50 tuổi không rõ nhân thân lai lịch mua 200.000đ ma túy đựng trong 01 gói ni lon. Sau khi mua xong, bị cáo lấy ra một ít sử dụng còn lại cất giấu vào ống quần bên phải rồi điều khiển xe đi về. Trên đường về đến Thôn Đ, xã Đ, huyện B thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ, lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ 01 gói ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 28/2019/GĐKTHS ngày 24/01/2019 của Ph kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước xác định: Chất màu trắng có trong gói nyon được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,134gam, loại Heroine.

Từ những căn cứ trên đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Doanh Thiêm Ph đã phạm vào “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ……

c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhưng do không tu chí làm ăn dẫn đến nghiện ma túy nên mặc dù nhận thức được hành vi mua, tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 201 5, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo phạm tội lần đầu, là lao động chính trong gia đình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo mức án nghiêm để giáo dục, răn đe bị cáo và Ph ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Về vật chứng vụ án: Số ma tuý còn lại sau giám định là vật liệu Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động hiệu Nokia không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo; 01 xe Mô tô Biển kiểm soát: 93T1-1846 là tài sản chung của bị cáo với vợ là bà Nông Thị H, là phương tiện đi lại của gia đình, bị cáo sử dụng đi mua ma túy bà H không biết nên trả lại cho bị cáo cùng vợ là bà Nông Thị H là phù hợp.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đi với đối tượng bán ma túy cho bị cáo chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra tách ra tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định cảu Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Doanh Thiêm Ph phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Doanh Thiêm Ph 01(một) năm 03(ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/01/2019.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong ký hiệu 28 của Ph kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước.

Tuyên trả lại cho bị cáo cùng vợ là bà Nông Thị H 01 xe Mô tô nhản hiệu SUZUKI, màu đen; BKS: 93T1 – 1846; Số máy: 456-VN118547; Số khung: 44H050118547 cùng 01 đăng ký xe mô tô số: 0057136 mang tên Doanh Thiêm Ph; 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số Imei 99538245.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0009660 ngày 03/12/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng).

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Doanh Thiêm Ph phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 17/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về