Bản án 250/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ B C, TỈNH B D 

BẢN ÁN 250/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã B C, tỉnh B D mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 231/2019/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 212/2019/HSST-QĐ ngày 25/11/2019, đối với bị cáo:

Lê Tuấn Th, sinh năm 1992 tại Đ T; hộ khẩu thường trú: Ấp 2, xã TM T, thành phố C L, tỉnh Đ T; chỗ ở: Khu phố 7, phường CPH, thị xã B C, tỉnh B D nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M, sinh năm 1973 và bà Huỳnh Thị Trúc S, sinh năm 1975; gia đình bị cáo có 02 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1996.

Tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 04/10/2019, bị bắt phạm tội quả tang, tạm giữ, sau chuyển sang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã B C cho đến nay. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trên cơ sở nội dung, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lúc 23 giờ 30 phút ngày 03/10/2019, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Công an thị xã B C phối hợp với Công an phường CPH tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ số 95, nhà trọ 250 căn, đường DH1, khu phố 7, phường CPH, thị xã B C, tỉnh B D do Phan Tấn Th, sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú:

ấp A H A, xã B C, huyện T T, tỉnh A thuê ở cùng với Lê Tuấn Th, sinh năm 1992; hộ khẩu thường trú: ấp 2, xã Đ TM T, thành phố C L, tỉnh Đ T. Vào thời điểm kiểm tra tại phòng trọ số 95 có Lê Tuấn Th, Phan Tấn Th, Trịnh Ngọc Ph, sinh năm 1998, hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã Đăk T, huyện Tuy Đ, tỉnh Đăk N và Trương Hải Đ, sinh năm 2001, hộ khẩu thường trú: ấp Long H, xã Tân L, thị xã Ngã N, tỉnh Sóc T. Qua quá trình kiểm tra phát hiện và thu giữ tang vật gồm:

- 01 (một) túi nylon, miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng ở vị trí bếp ga đặt sát vách tường bên trái hướng cửa ra vào;

- 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng đặt ở bên trong túi vải màu nâu, đen, xanh để trên gác tại vị trí góc phòng bên trái theo hướng cửa ra vào phòng;

- 01 (một) bình nhựa hiệu Sting có nắp màu vàng trên nắp có gắn 01 (một) đoạn ống thủy tinh và 01 (một) đoạn ống hút nhựa màu cam tím tại vị trí phía dưới bếp ga;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO R9 ID: 2015CP0881 màu trắng, hồng của Th dùng để liên lạc mua ma túy;

- 01 (một) túi vải màu nâu, đen, xanh dùng để chứa ma túy.

Quá trình lập biên bản, đối tượng Lê Tuấn Th thừa nhận số ma túy trên là của Th, Th khai nhận là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ tháng 9/2019 cho đến ngày bị bắt. Nguồn ma túy Th có để sử dụng là do mua nhiều lần của đối tượng tên Sáu (không rõ nhân thân lai lịch) ở khu vực vòng xoay Mỹ Phước II thuộc phường Mỹ Phước, thị xã B C, tỉnh B D với giá từ 200.000 đồng đến 400.000 đồng đem về sử dụng.

Khong 22 giờ ngày 02/10/2019, Th liên lạc qua mạng xã hội Facebook bằng điện thoại hiệu OPPO sim số 0378755062 cho Sáu hỏi mua 400.000 đồng ma túy đá. Sáu đồng ý và hẹn giao dịch tại vòng xoay Mỹ Phước II thuộc khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã B C, tỉnh B D thì Th đi đến điểm hẹn gặp và mua được 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Th đem về phòng trọ kiểm tra lại thấy số ma túy ít hơn so với giá tiền mua nên Th yêu cầu Sáu bù thêm ma túy thì Sáu đồng ý, hẹn sẽ có người đem ma túy cho Th. Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/10/2019, hai đối tượng nam giới (không rõ nhân thân lai lịch) giúp Sáu đem 01 túi nylon miệng kéo dính chứa ma túy đá đến phòng trọ đưa cho Th. Sau khi nhận ma túy đá Th đem cất giấu dưới bếp ga đặt sát vách tường bên trái theo hướng cửa ra vào đồng thời đem 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá cất giấu vào trong túi vải màu nâu, xanh, đen để trên gác tại vị trí góc phòng bên trái theo hướng cửa ra vào phòng. Khoảng 23 giờ cùng ngày Đ đi làm về đến phòng trọ số 95, sau đó Ph và Th đến chơi cùng Th và Đ. Đến khoảng 23 giờ 30 phút thì bị lực lượng Công an tiến hành kiểm tra và bắt quả tang.

Các đối tượng Đ, Ph, Th khai không biết Th cất giấu ma túy, phù hợp với lời khai của Th.

Theo kết luận giám định số 742/MT-PC09 ngày 10/10/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B D xác định: Tinh thể màu trắng trong 01 (một) túi nylon, miệng kéo dính, trọng lượng: 0,6583 gam (M1), tinh thể màu trắng trong 01 (một) gói nylon hàn kín, trọng lượng: 0,1013 gam (M2). Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng: 0,6583 gam (M1); 0,1013 gam (M2) loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định mẫu vật sau giám định được niêm phong, trọng lượng: 0,6141 gam (M1); 0,0840 gam (M2).

Đi với Phan Tấn Th, Trịnh Ngọc Ph, Trương Hải Đ không biết Lê Tuấn Th cất giấu ma túy trong phòng trọ. Qua kiểm tra xét nghiệm chất ma túy đối với Phan Tấn Th, Trịnh Ngọc Ph, Trương Hải Đ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 12/11/2019 Công an thị xã B C ra Quyết định số 134, 135, 136 Quyết định xử phạt Trương Hải Đ, Trịnh Ngọc Ph, Phan Tấn Th mỗi người 750.000 đồng.

Đi với đối tượng S là người bán ma túy cho Th, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xác minh nhưng không xác định được nên không đề cập xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 251/CT-VKSBC ngày 14/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B C, tỉnh B D truy tố bị cáo Lê Tuấn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Tuấn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Tuấn Th từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 bì thư số 742/MT - PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B D bên trong có chứa 0,6141 gam Methamphetamin (M1), 0,0840 gam Methamphetamin (M2) là chất cấm lưu hành và 01 bình nhựa hiệu Sting có nắp màu vàng trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu cam tím là công cụ bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội và 01 túi vải màu nâu, den, xanh là công cụ bị cáo cất giấu ma túy nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 01 một điện thoại di động hiệu nhãn hiệu Oppo R9 ID: 2015CP0881 màu trắng, hồng của bị cáo Lê Tuấn Th đã dùng để liên lạc mua ma túy, liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội và còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo Lê Tuấn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, nhận thức rõ hành vi sai trái của mình, mong được xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo, hòa nhập cộng đồng làm người công dân tốt.

Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, thống nhất với tội danh và điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Lời nói sau cùng, bị cáo trình bày đã ăn năn hối cải, nhận thức rõ hành vi sai trái của mình là vi phạm pháp luật, mong xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã B C, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Những chứng cứ xác định có tội Tại phiên tòa, bị cáo Lê Tuấn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng; các biên bản hỏi cung bị can, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 03/10/2019, tại phòng trọ số 95, nhà trọ 250 căn đường DH1, khu phố 7, phường CPH, thị xã B C, tỉnh B D, bị cáo Lê Tuấn Th đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép 0,7596 gam loại Methamphetamine mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do vậy, bản Cáo trạng số 251/CT-VKSBC ngày ngày 14/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B C, tỉnh B D truy tố bị cáo Nguyễn Tấn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất: Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết tác hại của ma túy không chỉ huỷ hoại sức khoẻ con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) của bị cáo là hết sức nguy hiểm, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật. Do đó, cần phải có một mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình, xã hội và có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng, bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình nhưng bị cáo vẫn bất chấp thực hiện điều này thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài đủ để bị cáo cải tạo, học tập trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để giảm một phần hình phạt cho bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, điều luật và hình phạt là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng - Đối với 01 bì thư số 742/PC09 có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B D bên trong chứa thành phần Methamphetamin sau giám định có khối lượng M1 0,6141 gam; M2 0,0840 gam là chất cấm lưu hành và 01 bình nhựa hiệu Sting có nắp màu vàng trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu cam tím là công cụ bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội và 01 túi vải màu nâu, den, xanh là công cụ bị cáo cất giấu ma túy nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Đối với 01 một điện thoại di động hiệu nhãn hiệu Oppo R9 ID: 2015CP0881 màu trắng, hồng của bị cáo Lê Tuấn Th đã dùng để liên lạc mua ma túy, liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội và còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Tuấn Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 04 tháng 10 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư số 742/PC09 có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B D bên trong chứa thành phần Methamphetamin sau giám định có khối lượng M1 0,6141 gam; M2 0,0840 gam là chất cấm lưu hành;

01 bình nhựa hiệu Sting có nắp màu vàng trên nắp có gắn 01 đoạn ống thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa màu cam tím là công cụ bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội và 01 túi vải màu nâu, den, xanh - Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 một điện thoại di động hiệu nhãn hiệu Oppo R9 ID: 2015CP0881 màu trắng, hồng của bị cáo Lê Tuấn Th (Các vật chứng còn lại được lưu giữ tại Cơ quan Thi hành án thị xã B C theo biên bản giao nhận ngày ngày 21/11/2019 giữa Công an thị xã B C với Cơ quan Thi hành án thị xã B C, tỉnh B D).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Bị cáo Lê Tuấn Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 250/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:250/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về