TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 246/2018/HS-ST NGÀY 11/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 240/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248/2018/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:
Phạm Xuân T, sinh năm 1983 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 3, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: Lớp 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Phạm Xuân H, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1958; vợ tên Thái Thị H, sinh năm 1988 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 47/2006/HSST ngày 29/8/2006 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giam ngày 26/02/2018, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lăng Khắc T, sinh năm 1991; thường trú: Xóm 6, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
Người tham gia tố tụng khác:
- Người làm chứng: Anh Đặng Nhựt L, sinh năm 1974; thường trú: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 26/02/2018, Phạm Xuân T điều khiển xe mô tô biển số 67UA-0861 mang theo 01 gói giấy bạc chứa tinh thể màu trắng đến quán cà phê (không rõ địa chỉ) gần khu công nghiệp S, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương, gặp người đàn ông (không rõ nhân thân) mua 03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, giá 300.000 đồng. T bỏ vào trong túi quần trước bên trái, điều khiển xe mô tô đi về nhà trọ. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, T đi đến đường số 18, khu công nghiệp S thì bị tổ tuần tra Đồn công an khu công nghiệp S kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật.
Vật chứng: 03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 gói giấy bạc chứa tinh thể màu trắng, 01 xe mô tô hiệu Honda Wave S, số khung: 1258FV091764, số máy: HC12E7091823, biển số 67UA-0861.
Kết luận giám định số 138/MT-PC54 ngày 28/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Chất màu trắng trong 03 gói nylon hàn kín (M2) và 01 gói giấy bạc (M1) gửi giám định là ma túy loại Heroin có tổng trọng lượng 0,4751 gam, trong đó: trọng lượng M1=0,0589 gam và M2=0,4162 gam. Trọng lượng còn lại sau giám định là 0,3455 gam.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Phạm Xuân T, Cơ quan Cảnh sát sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục xác minh.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 138/MT-PC54 ngày 28/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Tại Cáo trạng số 251/CT - VKS ngày 17 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Phạm Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Phạm Xuân T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe mô tô hiệu Honda Wave S, số khung: 1258FV091764, số máy: HC12E7091823, biển số 67UA-0861, qua điều tra, xác minh được biển số xe là biển số giả, biển số thật của xe là 37P1-342.06, đây là tài sản của anh Lăng Khắc T cho bị cáo mượn sử dụng. Anh T không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại xe cho anh T.
- Đề nghị tịch thu tiêu hủy bì thư được niêm phong chứa Heroin, trọng lượng sau giám định là 0,3455gam và biển số giả 67UA-0861.
Tại phiên tòa: Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội, trong phần nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26/02/2018 tại đường số 18, khu Công nghiệp S, phường D, thị xã D, tổ tuần tra Đồn Công an khu Công nghiệp S kiểm tra bắt giữ Phạm Xuân T đang tàng trữ 03 gói nylon hàn kín và 01 gói giấy bạc chứa Heroin, tổng trọng lượng là 0,4751gam (Căn cứ kết luận giám định 138/MT-PC54 ngày 28/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương).
Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
.......
c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
.......
Hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroin, tổng trọng lượng 0,4751gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Cáo trạng số 251/CT - VKS ngày 17 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc sử dụng ma túy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng, tệ nạn ma túy còn gây suy yếu giống nòi, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động, nghiện ma túy, có nhân thân xấu: Ngày 29/8/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
[7] Xử lý vật chứng:
- Đối với xe mô tô hiệu Honda Wave S, số khung: 1258FV091764, số máy: HC12E7091823, biển số 67UA-0861, qua điều tra, xác minh được biển số xe là biển số giả, biển số thật của xe là 37P1-342.06, đây là tài sản của anh Lăng Khắc T cho bị cáo mượn sử dụng. Anh T không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại xe cho anh T.
- Xét 01 bì thư được niêm phong chứa Heroin trọng lượng sau giám định 0,3455 gam là vật cấm lưu thông cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với biển số giả 67UA-0861 không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Đối với người đàn ông (chưa rõ nhân thân) bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan Cảnh sát sát điều tra Công an thị xã Dĩ An tiếp tục xác minh.
[9] Mức hình phạt, xử lý vật chứng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.
- Xử phạt bị cáo Phạm Xuân T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2018.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong chứa Heroin trọng lượng sau giám định 0,3455 gam và 01 biển số giả 67UA-0861.
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Xuân T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 246/2018/HS-ST ngày 11/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 246/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về