Bản án 243/2018/HS-ST ngày 16/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TS, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 243/2018/HS-ST NGÀY 16/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 258/2018/HSST ngày 18 tháng 9 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 243/2018/QĐXXST-HS ngày 05/10/2018 đối với bị cáo:

Lò Văn D, sinh năm 1995 tại xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký HKTT: Bản P, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn phổ thông: 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn Ng, sinh năm 1967 và bà Quàng Thị H (Lò Thị H), sinh 1967; gia đình có 04 chị em, bị cáo là thứ tư; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05 tháng 6 năm 2018 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bản Cáo trạng số: 190/CT-VKS ngày 17 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh truy tố Lò Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09h00 phút ngày 05/6/2018, Lò Văn D, sinh năm 1995, trú tại bản Pa Nặm, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đi xe buýt từ thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội (nơi bị cáo làm thuê) đến thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh với mục đích mua ma tuý để sử dụng. Khi đi đến khu vực phường Đ, thị xã TS, D xuống xe đi bộ vào một ngõ nhỏ trong khu phố Thịnh Lang. D nhìn thấy một nam thanh niên có biểu hiện nghiện ma tuý đang đứng ở đầu ngõ. D đi lại gần hỏi mua ma tuý của người thanh niên này. Người này đồng ý, nên D lấy 100.000 đồng mang theo đưa cho người này, người thanh niên cầm tiền rồi hẹn D chờ một lúc. D đứng chờ khoảng 05 phút sau thì người thanh niên này quay lại đưa cho D 01 gói nhỏ được bọc ngoài là lớp giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng. D cầm gói nhỏ đút vào trong túi quần bên trái phía trước đang mặc và đi tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Vật chứng là 01 gói nhỏ nêu trên đã được Công an niêm phong có chữ ký của bị cáo, người chứng kiến và dấu đỏ của Công an phường Đ.

Cùng ngày 05 tháng 6 năm 2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh đã ra Quyết định số: 233 trưng cầu giám định chất bột màu trắng bên trong gói nhỏ thu giữ từ Lò Văn D như đã nêu trên. Yêu cầu giám định: “Mẫu vật gửi giám định có phải chất ma túy không? Tên gọi? Khối lượng?”.

Tại bản Kết luận giám định số: 680/KLGĐMT-PC54 ngày 05 tháng 6 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh đã kết luận:

“Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng có khối lượng 0,2015 gam; Là ma tuý; Loại ma tuý: Heroine.

Heroine là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất”.

Tại phiên toà, bị cáo Lò Văn D khai nhận: Do mắc nghiện ma túy từ năm 2017, nên ngày 05/6/2018 bị cáo đã đến phường Đ, thị xã TS mua 100.000 đồng ma tuý của một nam thanh niên bị cáo không quen biết với mục đích để bị cáo sử dụng. Sau khi mua, bị cáo đi tìm nơi sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì đã bị tổ công tác của Công an thị xã TS kiểm tra phát hiện thu giữ gói ma tuý bị cáo mới mua được. Gói ma tuý đã được niêm phong có chữ ký của bị cáo và những người tham gia. Ngoài bị thu gói ma túy bị cáo vừa mua được, bị cáo không bị thu giữ thứ gì khác. Bị cáo nhất trí với bản Kết luận giám định số: 680/KLGĐMT-PC54 ngày 05 tháng 6 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh, không yêu cầu giám định lại. Các tình tiết được mô tả trong bản cáo trạng Viện kiểm sát vừa công bố tại phiên tòa giống với bản cáo trạng bị cáo đã nhận được, đúng với diễn biến của vụ án mà bị cáo đã thực hiện. Bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đề nghị Hội đồng xét xử miễn phạt tiền cho bị cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên toà hôm nay, căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; ý kiến của bị cáo và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt: Lò Văn D từ 14 đến 17 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 05 tháng 6 năm 2018; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vỏ đựng mẫu vật và mẫu vật còn lại sau giám định.

Trong phần tranh luận, bị cáo nhất trí với bản luận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Kết thúc phần tranh luận, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về tội danh: Lời nhận tội của bị cáo Lò Văn D tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng với các tình tiết của vụ án mà bị cáo đã thực hiện. Vật chứng được thu giữ từ bị cáo và giám định theo đúng trình tự luật định, sau giám định đã kết luận vật chứng thu giữ từ bị cáo có khối lượng là 0,2015 gam là ma túy; loại ma tuý: Heroine. Heroine là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 73/2018 ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định danh mục chất ma túy và tiền chất.

Ma túy là chất do Nhà nước độc quyền quản lý, mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân đều không được tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng khi không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép, nhưng Lò Văn D vẫn tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Lò Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2. Về hình phạt:

- Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo phạm tội không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác. Do vậy, chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

- Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Nạn ma tuý là hiểm họa của xã hội, bị loài người cực lực lên án. Vì nó, mà không biết bao nhiêu gia đình cha mẹ mất con, vợ mất chồng, đạo đức xã hội bị băng hoại, sức khoẻ bị suy tàn, giống nòi bị thui chột, tài sản bị khánh kiệt. Đây còn là nguyên nhân trực tiếp của nhiều tội phạm nguy hiểm khác và cũng là con đường ngắn nhất để lây truyền căn bệnh vô phương cứu chữa. Biết vậy, nhưng chỉ vì thỏa mãn nhu cầu ích kỷ, đồi bại của bản thân, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, kỷ cương phép nước, lao vào ma túy, lao vào con đường phạm tội, để rồi phải đứng trước phiên tòa hôm nay chịu sự trừng phạt của pháp luật. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét thấy, sau khi phạm tội, bị cáo đã khai báo thành khẩn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Do vậy, cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không có mục đích trục lợi và có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Tại phiên tòa bị cáo xin miễn phạt tiền; đại diện Viện kiểm sát cũng đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Liên quan trong vụ án này còn có người đã bán ma tuý cho bị cáo, nhưng bị cáo không biết danh tính, địa chỉ của người đó. Vì vậy, Cơ quan điều tra vẫn đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

3. Về các vấn đề khác:

- Về vật chứng vụ án: Khi bắt quả tang Lò Văn D tàng trữ ma túy, Cơ quan điều tra đã thu giữ từ D 01 gói ma túy là Heroine có khối lượng 0,2015 gam. Sau giám định còn lại 0,1238 gam mẫu vật. Xét thấy, vỏ đựng mẫu vật không có giá trị sử dụng và mẫu vật còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành. Vì vậy, cần tịch thu tiêu hủy;

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự, Xử phạt: Lò Văn D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ 05 tháng 6 năm 2018. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 16 tháng 10 năm 2018.

3. Về các vấn đề khác:

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vỏ đựng mẫu vật và 0,1238 gam mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có chữ ký của Giám định viên và dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Vật chứng hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TS, tỉnh Bắc Ninh;

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Lò Văn D phải chịu 200.000 đồng án phí HSST;

- Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 243/2018/HS-ST ngày 16/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:243/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về