Bản án 242/2019/HSPT ngày 10/09/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 242/2019/HSPT NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 10 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 231/2019/TLPT-HS ngày 26-6-2019 đối với bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 20/05/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

* Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Xuân T, sinh ngày 06 tháng 12 năm 1975, tại huyện Q1, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú trước khi bị bắt: Cụm 2 CX, xã A, huyện Q1, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch; Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân L2 và bà Trương Thị L3 (đều đã chết); có vợ Trương Thị L (bị hại trong vụ án) và có 03 người con sinh các năm 1995, 1997, 2007; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt giữ ngày 22 tháng 10 năm 2018, sau đó bị tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình; có mặt.

* Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Nguyễn Xuân T theo yêu cầu của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Luật sư Trương Thanh T1, Văn phòng luật sư C thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Bình; có mặt.

* Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Anh Nguyễn Xuân T2, sinh năm 1995 (con đẻ bị hại); trú tại: Thôn CX, xã A, huyện Q1, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

- Chị Nguyễn Thị T3, sinh năm 1997 (con đẻ bị hại); trú tại: Thôn CX, xã A, huyện Q1, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

- Người được các đại diện hợp pháp của người bị hại uỷ quyền tham gia giải quyết vụ án: Ông Trương Văn Q, sinh năm 1968 (anh ruột bị hại); trú tại: Thôn CX, xã A, huyện Q1, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Xuân T và chị Trương Thị L là vợ chồng, Ngày 18 tháng 10 năm 2018, sau khi vợ chồng Nguyễn Xuân T và Trương Thị L cãi nhau thì chị L đi ra khỏi nhà. Khoảng 21 giờ ngày 21 tháng 10 năm 2018, Nguyễn Xuân T điện thoại bảo chị L về nhà, sau khi nghe điện thoại, chị L trả lời: “Điện hỏi làm chi, đi đâu thì đi, ở đâu thì ở”, Nguyễn Xuân T nghe có giọng đàn ông nói vọng trong điện thoại nên tức giận lấy xe máy chạy đến nhà ông Nguyễn Trường H ở thôn L1, xã X, huyện Q1, tỉnh Quảng Bình là người mà thường ngày Nguyễn Xuân T và chị Trương Thị L đến làm công đổ bê tông cho ông H tìm chị L. Khi đến nhà ông H, T thấy có nhiều người ngồi chơi nên hỏi: “Có vợ tôi ở trong đó không”, ông H trả lời: “Không có”. T hỏi tiếp: “Tại sao có xe máy mà không có người, không có thì mở cửa phòng cho tau xem” nhưng ông H không mở. T đi ra đứng ở hiên nhà ông H thì thấy chị L từ chỗ chiếc xe công nông đỗ ở bên hông nhà chạy ra đường, bị cáo chạy theo 30m thì đuổi kịp chị L và dùng dao mũi nhọn đâm vào vùng bụng Chị L.

Quá trình điều tra Nguyễn Văn T khai con dao được bị cáo sử dụng đâm chị L là dao do bị cáo mang từ nhà đi do sau khi nghe điện thoại từ chị L thì bị cáo đi xuống nhà bếp của mình lấy 01 con dao dài 26,5cm, cán dao bằng nhựa màu xanh, trắng, lưỡi dao bằng kim loại, mũi nhọn dài 15cm để ở túi quần sau rồi chạy xe máy đi tìm chị L. Khi thấy chị L chạy ra từ nhà ồng H thì bị cáo chạy theo đuổi được 30m thì bắt được chị L, tay trái T nắm lấy vạt áo chị L và kéo quay người chị L gần đối diện với T, tay phải T lấy dao để ở túi quần sau đâm vào vùng bụng chị L. Ông Nguyễn Trường H thấy T chạy theo đùng dao đâm chị L nên chạy đến ôm T và vật T xuống đường, lấy dao từ tay T. Chị L được mọi người đưa đi cấp cứu sau đó tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về từ thi số 187/TT ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở Y tế tỉnh Quảng Bình đối với tử thi Trương Thị L kết luận: Dấu hiệu chính qua giám định: Hạ sườn trái có vết thương kích thước 3,7 x 0,7cm, sâu thấu bụng. Thủng cơ hoành bụng trái. Nhu mô bờ dưới gan trái có vêt rách kích thước mặt trước 4,5 x 0,1cm, mặt sau 5,3 x 0,lcm. Mặt trước môn vị có vết rách kích thước 3,5 x 0,5cm. Khoang bụng có 3500ml máu cục và máu lỏng. Nguyên nhân chết: Suy tuần hoàn cấp do mất máu. Cơ chế hình thành dấu vết: Do vật sắc nhọn gây ra.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 20-5- 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Xuân T, Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt giữ 22 tháng 10 năm 2018 sau đó bị tạm giam.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, bị cáo Nguyễn Xuân T có đơn kháng cáo cho rằng hình phạt 17 năm tù mà Bản án sơ thẩm đã xử đối với bị cáo là quá cao, sau khi gây án bị cáo đã thành khẩn khai báo; hành vi “Giết người” của bị cáo là do bức xúc tức thời, không có ý định trước, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Xin được giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện chăm lo con nhỏ không có người trông coi, chăm sóc.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo vì bức xúc nên lấy dao ở nhà bỏ vào túi quần tìm vợ là chị L, khi thấy chị L do không kiềm chế được đã đâm chị L dẫn đến chị L chết, bị cáo ân hận, gia đình bị cáo khó khăn và xin giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm như sau: Về việc chấp hành pháp luật: Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp hành đầy đủ và đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Về nội dung: Tòa án sơ thẩm đã kết án bị cáo là có căn cứ không nặng, tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới do vậy, đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện hợp pháp cho người bị hại ông Trương Văn Q đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Xuân T2 (con của bị cáo và bị hại) cho rằng bị cáo đã khắc phục được chi phí mai táng cho bị hại đề nghị Tòa án giảm án cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm: Bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục tiền mai táng phí cho chị L đề nghị giảm án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Xuân T, thấy: Từ mâu thuẫn vợ chồng nên sau khi nghe điện thoại từ chị L (vợ của bị cáo T), bị cáo lấy con dao nhọn tại nhà của bị cáo và bỏ vào túi quần chạy xe máy tìm chị L; khi thấy chị L từ chỗ chiếc xe Công nông bên hông nhà ông H chạy ra đường, bị cáo chạy theo đuổi được 30m thì đuổi kịp chị L và dùng dao nhọn mang theo đâm vào vùng bụng chị L, chị L được mọi người đưa đi cấp cứu sau đó tử vong. Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, hung hãn, tước đoạt mạng sống của người khác trái pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo 17 (mười bảy) năm tù về tội “Giết người” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm mặc dù bị cáo thành khẩn khai báo, nhưng mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là cần thiết để răn đe và phòng ngừa tội phạm; do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt tù, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[2]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3]. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

1.1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Xuân T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1.2. Tuyên xử:

Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 17 (Mười bảy) năm tù, về tội: “ Giết người”; thời hạn tù tình từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/10/2018.

2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 12/2019/HS-ST ngày 20-5- 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình về trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Nguyễn Xuân T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

445
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2019/HSPT ngày 10/09/2019 về tội giết người

Số hiệu:242/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về